tag:blogger.com,1999:blog-52876169590202952162024-03-18T21:52:58.042-07:00Quân Lực Việt Nam Cộng HòaNha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.comBlogger31125tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-85843836942576951532010-05-07T14:32:00.000-07:002010-05-07T14:32:28.145-07:00Sự Thành Hình Của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgHOgeesy4h_tNIdZ0wpweKkIiEvk2XclSNWR385CMZFKYQPt3nuKSpTiw4udbg2mMJT2LaLZjz3mCExtDMCy_QTH0t5mf1GhYzmTcgn3HlIr-OojOVBYR46Xyaew2Qyw7YqtZ5V79kkAM/s1600-h/vnchflyer.jpg"><img alt="" border="0" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213264750871631874" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgHOgeesy4h_tNIdZ0wpweKkIiEvk2XclSNWR385CMZFKYQPt3nuKSpTiw4udbg2mMJT2LaLZjz3mCExtDMCy_QTH0t5mf1GhYzmTcgn3HlIr-OojOVBYR46Xyaew2Qyw7YqtZ5V79kkAM/s400/vnchflyer.jpg" style="cursor: hand; display: block; margin: 0px auto 10px; text-align: center;" /></a><br />
<br />
<span style="font-weight: bold;">Khái lược về lịch sử hình thành của Quân Lực VNCH<br />
<br />
Hoàn cảnh chánh trị lúc Quân Ðội Quốc Gia VN ra đời<br />
<br />
Lịch sử thành lập Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa là một tiến trình khá phức tạp trải dài trong nhiều năm, và gắn liền với những diễn biến của giòng lịch sử Việt Nam cận đại. Ðể độc giả có một ý niệm khái quát về sự hình thành đó, chúng tôi xin tóm lược hoàn cảnh chính trị của nước nhà vào thời kỳ chiến tranh Việt Nam bắt đầu bùng nổ.<br />
<br />
Sau khi Ðệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, quân đội viễn chinh Pháp trở sang Ðông Dương đem theo lực lượng hùng hậu chiếm đóng ba xứ Việt, Miên, Lào, với manh tâm đặt lại nền đô hộ trên các thuộc địa cũ theo chánh sách thực dân cố hữu của người Pháp. Tướng De Gaulle bổ nhiệm đô đốc Thierry d'Argenlieu làm cao ủy Ðông Dương và danh tướng Leclerc de Haute Cloque làm tư lệnh quân đội viễn chinh. Vào cuối tháng 9 năm 1945, quân đội Pháp đã núp bóng quân đội Anh do tướng Gracey chỉ huy để giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở xuống.<br />
<br />
Cuộc xâm lăng mới của Pháp này đã gặp sức kháng cự mạnh mẽ của người Việt Nam, nhất là các đoàn thể võ trang như Việt Minh, Cao Ðài, Hòa Hảo, Bình Xuyên trong miền Nam, và các đảng phái quốc gia như Việt Nam Quốc Dân Ðảng và Ðại Việt ở miền Trung và Bắc. Mặc dù tinh thần kháng chiến chống thực dân của dân ta rất cao, nhưng vì vũ khí thô sơ và tổ chức còn rời rạc, nên các lực l ượng võ trang này bị quân Pháp đánh bại mau lẹ. Ða số phải rút về thôn quê hay vào bưng biền để tổ chức trường kỳ kháng chiến. Tuy một số dân chúng còn lại ở các thành phố và vùng bị chiếm đóng đã phải ngả theo Pháp vì lý do sinh kế hoặc muốn được yên thân, nhưng trong lòng đa số dân Việt lúc đó đều nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, mong sớm phục hồi được độc lập và thống nhất cho quốc gia.<br />
<br />
Trong số những người phải ra cộng tác với Pháp, một số đã gia nhập quân đội viễn chinh và được gọi là Thân Binh Ðông Dương (Partisans Indochinois). Về sau, vì nhu cầu chiến tranh bành trướng mau lẹ, người Pháp đã tuyển mộ lính địa phương tại chỗ và lập thành các lực lượng phụ thuộc (forces suppletives) do sĩ quan Pháp chỉ huy. Tưởng cũng nên nhấn mạnh rằng: không phải ai hợp tác với người Pháp cũng đều là Việt Gian. Ngược lại, nhiều người là những phần tử Quốc Gia chân chính chỉ muốn nhờ cậy vào thế lực của Pháp để chống lại bọn Cộng Sản Việt Minh.<br />
<br />
Sang năm 1948, giải pháp Bảo Ðại ra đời với chủ trương đoàn kết các lực lượng quốc gia để chống Việt Minh, vì lúc đó thành phần này đã ngả theo phe Cộng Sản quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Nga, Tàu để chống lại khối dân chủ tây phương.<br />
<br />
Theo hiệp ước Élysée ký ngày 8 tháng 3 năm 1949 giữa quốc trưởng Việt Nam Bảo Ðại và tổng thống Pháp Vincent Auriol, nước Việt Nam được trao trả nền độc lập, có quân đội và chính sách ngoại giao riêng. Do đó, quân đội Việt Nam được chính thức thành lập và lấy tên là Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam.<br />
Thời kỳ phôi thai (1946-1949)<br />
<br />
Do nghị định quốc phòng ngày 13 tháng 4 năm 1949, quân độc Việt Nam được thành lập, lúc đầu lấy tên là Vệ Binh Quốc Gia (Garde Nationale). Quân Ðội Việt Nam lúc này có qui chế riêng và lương bổng được hưởng tương đối cao hơn phụ lực quân lúc trước. Ba đơn vị chiến đấu đầu tiên được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1949 là các tiểu đoàn bộ binh số 18, 2, và 3, gọi tắt là BVN (Batallion Vietnamien hay Bê Vê En). Lần lượt, các lực lượng quân sự phụ thuộc khác như Cộng Hòa Vệ Binh trong Nam, Bảo Vệ Quân ở miền Trung (sau đổi tên là Việt Binh Ðoàn) và Bảo Chính Ðoàn ở Bắc, v.v. được thuyên chuyển qua hoặc sát nhập vào Quân Ðội Quốc Gia. Còn các lực lượng võ trang của các giáo phái như Cao Ðài, Hòa Hảo, Bình Xuyên tại miền Nam Việt Nam hoặc trở về hợp tác với chánh phủ quốc gia, hoặc rút vào bưng, nhưng sau đó cũng bị tiêu diệt lần hồi. Quân số Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam vào cuối năm 1949 là 45,000 người, không kể các lực lượng còn trong hệ thống quân đội Pháp.<br />
<br />
QLVNCH trong thập niên 1950<br />
Thời kỳ thành lập (1950-1952)<br />
<br />
Ngày 11 tháng 5 năm 1950, thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố thành lập Quân Ðội Quốc Gia với lập trường chống Cộng, gia tăng quân số lên 60,000 người, do ngân sách quốc gia đài thọ 40%, phần còn lại do Pháp gánh chịu. Viện trợ Mỹ cũng bắt đầu giao thẳng cho các đơn vị Việt Nam, chứ không qua trung gian quân đội Pháp theo chương trình Viện Trợ Hỗ Tương Quốc Phòng MDAP (Mutual Defense Assistance Program). Trưởng phái bộ viện trợ Hoa Kỳ đầu tiên tại Việt Nam là đại tướng O'Daniel. Các quân trường lớn được bắt đầu thành lập trong thời kỳ này gồm có: Trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt, Trường Sĩ Quan Thủ Ðức và Nam Ðịnh. Trường Sĩ Quan Trừ Bị sau này được đổi tên là Trường Bộ Binh Thủ Ðức. Các trung tâm nhập ngũ dùng để huấn luyện binh sĩ quân dịch cũng được thành lập tại Quang Trung (Nam Việt), Phú Bài (Trung Việt) và Quảng Yên (Bắc Việt).<br />
<br />
Ðến năm 1951, sau khi bị thất bại nặng tại vùng Cao-Bắc-Lạng, Pháp muốn tăng cường Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam để nhận lãnh trách nhiệm bình định và an ninh lãnh thổ. Do đó, tướng De Lattre de Tassigny đã đề nghị thành lập nhiều tiểu đoàn hoàn toàn Việt Nam do các sĩ quan người Việt chỉ huy.<br />
<br />
Ngày 5 tháng 5 năm 1951, Bộ Quốc Phòng Việt Nam mới thật sự thành hình, với những cơ cấu tổ chức đầu não như Bộ Tổng Tham Mưu, Nha Quân Pháp, Nha Thanh Tra, Tổng Nha Hành Chánh & Quân Lương, Nha Quân Cụ, Nha Quân Y, v.v.<br />
<br />
Lệnh tổng động viên được ban hành theo dụ số 26, ngày 15 tháng 7 năm 1951, gọi các sinh viên sĩ quan nhập ngũ khóa trừ bị đầu tiên và 60,000 thanh niên thi hành quân dịch. Cuối năm 1951, quân số dưới cờ lên tới 110,000 người. Các đơn vị nòng cốt được thành lập trong thời kỳ này là:<br />
<br />
- Tiểu Ðoàn Nhẩy Dù<br />
- Ðại Ðội 1 & 3 Truyền Tin<br />
- Ðệ Nhất (I) Chi Ðoàn Thám Thính Xa<br />
- Tiểu Ðoàn Pháo Binh<br />
- Ðại Ðội 2 & 3 Công Binh <br />
<br />
Qua năm 1952, để gia tăng nỗ lực chiến tranh, Bộ Tổng Tham Mưu được tách riêng khỏi trụ sở Bộ Quốc Phòng và đặt tổng hành dinh tại tòa nhà lầu góc đại lộ Trần Hưng Ðạo và Trần Bình Trọng (Chợ Quán). Vị tổng tham mưu trưởng đầu tiên là thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh, con trai của thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, nguyên là cựu trung tá Không Quân Pháp.<br />
<br />
Vào tháng 7 năm 1952, Bộ Chỉ Huy các quân khu được thành lập như sau:<br />
<br />
- Ðệ Nhất Quân Khu gồm Nam Việt<br />
- Ðệ Nhị Quân Khu gồm Trung Việt<br />
- Ðệ Tam Quân Khu gồm Bắc Việt <br />
<br />
Cuối năm 1952, Quân Ðội Quốc Gia có 148,000 người, gồm 95,000 quân chánh qui và 53,000 bảo an địa phương. Các đơn vị gồm có:<br />
<br />
- 59 tiểu đoàn bộ binh<br />
- 2 tiểu đoàn nhẩy dù<br />
- 2 tiểu đoàn ngự lâm quân<br />
- 8 tiểu đoàn sơn cước <br />
<br />
Về cơ giới có:<br />
<br />
- 6 chi đoàn thám thính xa<br />
- 1 tiểu đoàn pháo binh và 8 pháo đội biệt lập<br />
- 6 đại đội vận tải<br />
- 6 đại đội truyền tin<br />
- 2 liên đoàn tuần giang <br />
<br />
Cũng trong thời kỳ này, các quân chủng không quân và hải quân đã bắt đầu đặt nền móng tại Nha Trang, là nơi có thời tiết lý tưởng cho việc huấn luyện. Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân được thành lập vào tháng 4 năm 1952 (sẽ nói rõ hơn trong phần lược sử binh chủng Không Quân và Hải Quân).<br />
Thời kỳ phát triển (1953-1954)<br />
<br />
Theo đà phát triển, kể từ đầu năm 1953 cho tới khi ký kết hiệp định Geneve (ngày 20 tháng 7 năm 1954), có 4 sự kiện sau đây đáng được ghi nhận:<br />
<br />
1. Phát triển các bộ tham mưu, các cơ sở chỉ huy từ trung ương đến các quân khu, tiểu khu theo một hệ thống của quân đội có qui uớc hẳn hoi.<br />
<br />
2. Thành lập thêm Sư Ðoàn 7 Bộ Binh và 54 tiểu đoàn khinh quân để hành quân vùng đồng ruộng thay thế quân đội Pháp.<br />
<br />
3. Thành lập 15 liên đoàn bộ binh và 1 liên đoàn nhẩy dù.<br />
<br />
4. Tiến hành công việc Việt hóa bằng cách chuyển dần các lãnh thổ và công tác hành quân cho người Việt, khởi đầu là các tiểu khu Mỹ Tho (Nam Việt), Hưng Yên, và Bùi Chu (Bắc Việt). <br />
<br />
Ngày 12 tháng 4 năm 1954, thủ tướng Bửu Lộc ban hành lệnh tổng động viên, ấn định rằng mọi thanh niên Việt Nam sanh từ ngày 1 tháng 1 năm 1929 đến ngày 31 tháng 12 năm 1933 đều phải nhập ngũ. Ngoài ra, mọi thanh niên tuổi từ 18 đến 45 cũng không được phép xuất ngoại trong thời kỳ chiến tranh. Tòa án quân sự được thành lập để xét xử các thanh phần bất phục tòng hay đào ngũ.<br />
Thời kỳ độc lập (1954 trở về sau)<br />
<br />
Sau cuộc ngưng bắn do hiệp ước Geneve ấn định, các đơn vị của Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam đồn trú tại phía bắc vĩ tuyến 17 được lần lượt di chuyển vào Nam kể từ tháng 8 năm 1954. Phần lớn các đơn vị đóng chung quanh Hà Nội và Hải Phòng được đưa vào vùng Ðà Nẵng, Nha Trang, và các tỉnh miền Trung. Các tiểu đoàn Nùng (sơn cước) được đưa vào Cam Ranh để sau này thành lập sư đoàn Nùng tại sông Mao do đại tá Wòng A Sáng chỉ huy. Bộ Tư Lệnh Ðệ Tam Quân Khu dời vào Nha Trang. Riêng các trung tâm huấn luyện Hà Nội và Quảng Yên được sát nhập vào Trung Tâm Quán Tre thuộc tỉnh Gia Ðịnh.<br />
<br />
Cũng trong thời gian này, các lực lượng võ trang giáo phái như Cao Ðài, Hoà Hảo, được sát nhập vào Quân Ðội Quốc Gia để thành lập một quân lực có sự chỉ huy thống nhất trên toàn quốc. Riêng có một nhóm Hòa Hảo ly khai chừng vài ngàn người, dưới quyền chỉ huy của trung tướng Lê Quang Vinh, tức Ba Cụt, rút vào Cao Miên để chống lại chính phủ.<br />
<br />
Ngày 26 tháng 10 năm 1955, khi cử hành lễ đăng quan của tổng thống Ngô Ðình Diệm và cũng là ngày khai sinh nền Ðệ Nhất Cộng Hòa. Quân Ðội Quốc Gia được đổi tên là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Lúc đó, quân số hiện diện dưới cờ là 167,000 người.<br />
Thời kỳ hiện đại hóa (1961-1975)<br />
<br />
Kể từ lúc mang danh xưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH), quân đội là lực lượng nồng cốt bảo vệ an ninh và bình định lãnh thỗ miền Nam từ vĩ tuyến 17 cho đến mũi Cà Mau. Trong thời kỳ này, quân lực Việt Nam chú trọng đến việc gia tăng khả năng tác chién, đặt vấn đề huấn luyện lên hàng đầu. Nhiều đợt sĩ quan Hải Lục Không quân được gởi đi tu nghiệp tại ngoại quốc, nhất là tại Hoa Kỳ để chuẩn bị cho việc hiện đại hóa quân đội.<br />
<br />
Lúc này, người Mỹ cũng đã có mặt khá đông đảo tại miền Nam và viện trợ quân sự Mỹ có tầm quan trọng đặc biệt, nếu không muốn nói là quyết định trong vấn đề hiện đại hóa. Phái bộ cố vấn quân sự Hoa Kỳ (Military Assistance & Advisory Group, gọi tắt là MAAG) được đổi thành MAC-V và đặt dưới quyền điều khiển của tướng 4 sao William Wesmoreland.<br />
<br />
Về bộ binh, bảng cấp số được tăng lên đến 11 sư đoàn bộ binh, một lực lượng tổng trừ bị gồm Sư Ðoàn Dù và Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC). Ngoài ra, còn có nhiều Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân (BÐQ) được đặt dưới quyền xử dụng của các quân khu.<br />
<br />
Riêng các quân chủng Không Quân và Hải Quân cũng được bành trướng tối đa trong thời kỳ này. Ðây là giai đoạn chuyển mình của QLVNCH, biết đổi từ một lực lượng phụ thuộc vào lực lượng viễn chinh Pháp, để trở thành một quân đội hiện đại và được trang bị tối tân nhất vùng Ðông Nam Á.<br />
<br />
Vì thời kỳ này là giai đoạn rất quan trọng trong lịch sử hình thành QLVNCH, chúng tôi sẽ lược duyệt lý do và đi sâu vào chi tiết tiến trình hiện đại hóa của những quân binh chủng quan trọng nòng cốt trong quân lực.<br />
<br />
Trong những năm từ 1961 đến 1975, Cộng Sản Bắc Việt đã công khai xua quân xâm chiếm miền Nam. Nấp dưới tấm bình phong giả tạo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN), hàng sư đoàn quân chính qui cộng sản dùng đường mòn Hồ Chí Minh vượt vĩ tuyến 17 vào Nam. Những sư đoàn này được trang bị bằng đủ loại vũ khí tối tân với chiến xa và đại pháo yểm trợ. Nhưng dù ở thế bị động, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã giáng cho bọn cộng sản xâm lược những đòn quyết liệt, điển hình là trận thảm bại trong cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân vào 1968.<br />
<br />
Tuy nhiên sau khi đã dùng chính sách "ngoại giao bóng bàn" để bắt tay được với Trung Cộng, và cũng vì bị dân chúng phản đối dữ dội, chính phủ Nixon chuẩn bị kế hoạch rút quân đội Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Chương trình này được gọi là "Việt hóa cuộc chiến" (Vietnamization).<br />
<br />
Nguồn gốc của danh từ "Việt hóa" chỉ là một sự ngẫu nhiên. Nguyên vào khoảng tháng 3 năm 1971, lúc tổng thống Nixon mới đắc cử, tướng Andrew Goodpaster lúc đó là phụ tá của tướng Abrams (tướng Abrams là tổng tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam) có tham dự một buổi thuyết trình của Hội Ðồng An Ninh Hoa Kỳ. Trong buổi thuyết trình, tướng Goodpaster loan báo rằng Quân Lực VNCH bây giờ đã đủ mạnh, đến độ Hoa Kỳ có thể "không cần Mỹ hóa" (de-Americanizing) cuộc chiến tại Việt Nam nữa. Lúc đó, tổng trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Melvin Laird, một nhà chính trị già đời, cho rằng nếu nói "không còn Mỹ hóa" tức là gián tiếp công nhận trước đây Hoa Kỳ đã biến chiến tranh Việt Nam thành chiến tranh xâm lược giữa đế quốc Mỹ và nhân dân Việt Nam. Như vậy sẽ rơi vào chiêu bài "chống Mỹ cứu nước" của Cộng Sản. Bộ trưởng Laird đề nghị chỉ nên dùng một danh từ nào đó gián tiếp có ý nghĩa là Hoa Kỳ sẽ rút chân khỏi Việt Nam, nhưng tránh không đả động gì tới vấn đề Mỹ hóa. Thí dụ như thay vì nói "de-Americanizing" chẳng hạn. Tổng thống Nixon, cùng là một con cáo già chính trị, lập tức đồng ý: "Bộ trưởng Laird nói có lý." Thế là danh từ "Việt hóa" (Vietnamization) được ra đời trong tự điển Hoa Kỳ.<br />
<br />
Thực tế, quân đội Hoa Kỳ tuy đã muốn rút chân khỏi Việt Nam, tức là không còn tham chiến nữa, nhưng lại không muốn bị mất mặt vì đã bỏ rơi đồng minh và bị bọn cộng sản của một tiểu quốc đánh bại. Vì danh từ "de-Americanizing" bao hàm ý nghĩa Hoa Kỳ tháo chạy và bỏ rơi đồng minh, nên danh từ "Việt hóa" được xử dụng. Thật ra, Việt hóa tức là chuyển gánh nặng quân sự sang cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa, như vậy quân đội Hoa Kỳ sẽ không còn phải tham chiến nữa, tức là "không Mỹ hóa" vậy.<br />
<br />
Chương trình "Việt hóa" hay hiện đại hóa QLVNCH được chia ra làm 3 giai đoạn chính:<br />
<br />
Giai đoạn 1: Huấn luyện và trang bị QLVNCH để chuyển giao dần trách nhiệm bộ chiến.<br />
Giai đoạn 2: Phát triển khả năng yểm trợ của QLVNCH.<br />
Giai đoạn 3: Các quân nhân Hoa Kỳ nếu còn lại ở Việt Nam, sẽ chỉ giữ vai trò cố vấn. <br />
<br />
Tuy mãi đến khoảng đầu thập niên 1970 vấn đề Việt hóa, tức là giao trọng trách trên chiến trường cho QLVNCH, mới được đề cập tới, nhưng trên thực tế, trước khi có chương trình này, QLVNCH cũng đã đảm đương phần lớn gánh nặng của chiến cuộc. Tuy quân lực Hoa Kỳ có tham dự những trận đánh lớn với cộng quân, nhưng các lực lượng QLVNCH đã luôn luôn đụng độ với địch nhiều hơn, và thiệt hại bao giờ cũng cao hơn lực lượng đồng minh.<br />
<br />
Mặc dù có nhiều ý kiến chống đối tại Việt Nam cũng như tại Hoa Kỳ, công cuộc "Việt hóa" được tiến triển rất nhanh qua kế hoạch "Hiện Ðại Hóa QLVNCH" (gọi tắt là CRIMP - Consolidated RVNAF Improvement and Modernization Program). Tính đến năm 1972, Hoa Kỳ đã chuyển giao cho QLVNCH:<br />
<br />
- Trên 800,000 vũ khí cá nhân và cộng đồng.<br />
- Khoảng 2,000 chiến xa và đại bác.<br />
- Khoảng 44,000 máy truyền tin.<br />
<br />
So với năm 1968, QLVNCH có khoảng 700,00, vào cuối năm 1971 tăng lên trên 1 triệu người. Như vậy, QLVNCH đã được canh tân và cải tiến trong đầu thập niên 1970 để có thể thay thế quân đội Hoa Kỳ trên chiến trường miền Nam. Sau đây, chúng tôi sẽ đi sâu vào thời kỳ hiện đại hóa rất quan trọng của từng quân chủng: Lục Quân, Không Quân, và Hải Quân.<br />
<br />
Ðể giúp quý độc giả, nhất là những bạn trẻ không có dịp chiến đấu trong QLVNCH, dễ dàng nắm vững được những phần nồng cốt trong bài biên khảo này, chúng tôi xin mạn phép được đề câp sơ qua về cơ cấu tổ chức của QLVNCH.<br />
<br />
Tổng quát, Quân Lực VNCH được phân chia làm 3 quân chủng: Hải Quân, Không Quân, và Lục Quân, thường được gọi tắt là Hải, Lục, Không Quân. Cũng như đa số các quân đội trên thế giới, Lục Quân bao giờ cũng phải đảm đương phần lớn trách nhiệm trong các cuộc chiến, nên quân chủng này quan trọng nhất và có đông quân nhất.<br />
<br />
Theo định nghĩa khái quát, Lục Quân gồm các quân nhân đánh giặc "trên mặt đất". Không Quân dùng phi cơ để bay trên trời, và Hải Quân xử dụng các chiến hạm chiến đĩnh trên sông ngòi hay biển cả. Có nhiều người thường xử dụng lẫn lộn danh từ "quân chủng" và "binh chủng", thí dụ như "binh chủng" Không Quân, "binh chủng" Hải Quân"... Ðiều này cũng không lấy gì làm lạ, vì "quân" hay "binh" cũng đều là lính cả! Tuy nhiên, nếu phân biệt rõ ràng, một binh chủng chỉ là thành phần của một quân chủng, cũng như tiểu đoàn là thành phần của một trung đoàn. Lục Quân là một quân chủng lớn với gần nửa triệu quân dưới cờ, nên được chia thành nhiều binh chủng như: Bộ Binh, Công Binh, Pháo Binh, Thiết Giáp Binh, v.v. Còn hai Quân Chủng Không Quân và Hải Quân không được chia thành những binh chủng riêng biệt. Nếu chỉ kể riêng về quân số, binh chủng Bộ Binh còn đông hơn cả quân chủng Không Quân và Hải Quân hợp lại.<br />
<br />
Ðối với các binh chủng đặt biệt như Nhẩy Dù hay Thủy Quân Lục Chiến, tuy có dùng chiếm hạm của Hải Quân hay phi cơ của Không Quân khi đi hành quân, nhưng đều được kể là những binh chủng của Lục Quân.<br />
Nhìn chung, Lục Quân được gia tăng lên đến 450,000 người, chia ra 13 sư đoàn, gồm 171 tiểu đoàn lưu động được phối trí như sau: Sư Ðoàn 1, 2, và 3 trấn đóng tại Vùng 1 Chiến Thuật. Sư Ðoàn 22 và 23 trấn đóng tại vùng 2 Chiến Thuật. Sư Ðoàn 5, 18, và 25 trấn đóng tại Vùng 3 Chiến Thuật. Sư Ðoàn 7, 9, và 21 trấn đóng tại Vùng 4 Chiến Thuật.<br />
<br />
Ngoài ra, còn có hai sư đoàn tổng trừ bị là Sư Ðoàn Dù và Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến. Bốn mươi lăm (45) tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân được chia ra thành những liên đoàn đặt trực thuộc các Vùng Chiến Thuật. Năm mươi tám (58) tiểu đoàn Pháo Binh. Trong số những tiểu đoàn này, chỉ có mỗi một tiểu đoàn được trang bị đại bác 175 ly có tầm bắc xa tương đương với đại bác 130 ly của cộng quân. Các đại bác khác đều thuộc loại 105 ly hay 155 ly có tầm bắc ngắn hơn đại pháo của địch tới mươi cây số. Mười chính (19) thiết đoàn Kỵ Binh.<br />
<br />
Lực lượng Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân tại các tiểu khu và chi khu cũng gia tăng đáng kể, lên đến 550,000 người vào năm 1972. Quan trọng hơn nữa, lực lượng này được trang bị vũ khí tối tân M-16 và M-60 để thay thế các vũ khí lỗi thời như M-1 và trung liên BAR. Lục Quân có Lục Quân Công Xưởng tại Gò Vấp để sửa chữa và bảo trì những chiến cụ nặng như chiến xa và đại bác, v.v.<br />
Binh Chủng Thiết Giáp<br />
<br />
Vào năm 1950, người Pháp thành lập một đơn vị Thám Thính Xa cho Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam. Ðến khi đất nước bị chia đôi vào năm 1954, binh chủng Thiết Giáp gồm Lữ Ðoàn 3 Thiết Giáp và 4 thiết đoàn biệt lập. Cho tới đầu năm 1955, Bổ Chỉ Huy Thiết Giáp Binh mới được chính thức thành lập cùng với nền đệ nhất Cộng Hòa.<br />
<br />
Những chiến xa đầu tiên của binh chủng Thiết Giáp đều thuộc loại M-24 Chaffees nhẹ, thiết xa M8 loại nửa bánh nửa xích. Vào năm 1956, Thiết Giáp Binh được tổ chức theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ, gồm những thiết đoàn kỵ binh, mỗi thiết đoàn gồm 2 chi đoàn trang bị chiến xa M-8, M-3, và M-24.<br />
<br />
Trong thời gian từ 1957 đến 1962, Thiết Giáp Binh chỉ giữ một vai trò khiêm nhường trên chiến trường miền Nam vì các nhà quân sự cho rằng Việt Nam với nhiều rừng rú và sông rạch ruộng vườn lầy lội, không phải là chiến trường thích hợp cho chiến xa di chuyển. Tuy nhiên, cùng với sự sôi động của chiến trường, những thiết vận xa hay thiết quân vận M-113 được mang ra xử dụng thành công trong các cuộc hành quân tại Vùng 4. Sau đó, các thiết quân vận M-113 được trang bị hỏa lực mạnh hơn và lá chắn để trở thành một loại "chiến xa" đa dụng của Thiết Giáp Binh (xin phân biệt chiến xa hay xe tăng có nhiệm vụ chính là dùng hỏa lực tiêu diệt địch quân, còn thiết quân vận có mục đích nguyên thủy là dùng để chở quân đổ vào mục tiêu). Ðến năm 1964, các chiến xa Chaffees cũ kỹ được thay thế bằng loại M-41A3 "Walker Bulldog" tối tân hơn. Chiến xa M-41 chẳng bao lâu đã trở thành xương sống của Thiết Giáp Binh với 5 chi đoàn và rất được các chiến sĩ mũ đen ưa chuộng. Loại này tuy bị coi là nhỏ bé chật chội đối với người tây phương cồng kềnh, nhưng đối với người Việt Nam nhỏ tác thì lại rất vừa vặn và hữu hiệu.<br />
<br />
Vào những năm cuối cùng của cuộc chiến, khi Cộng Sản Bắc Việt dùng các loại chiến xa T-54 và PT-76 để yểm trợ cho bộ binh xung trận, Thiết Giáp Binh QLVNCH lại được canh tân qua chương trình Việt Nam hóa với các chiến xa tối tân hơn như M-48 có máy nhắm bằng Xenon. Trong các cuộc hành quân lớn như vượt biên qua Cam Bốt năm 1970, Hạ Lào năm 1971, và trận chiến Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 1972, các chiến xa của ta đã tỏ ra trội vượt so với thiết giáp của đối phương và gây cho chúng những thiệt hại nặng nề. Riêng trong trận xa chiến đầu tiên với chiến xa cộng sản tại Hạ Lào vào năm 1971, các chiến xa M-41 của Lữ Ðoàn 1 Thiết Kỵ (do đại tá Nguyễn Trọng Luật chỉ huy) đã bắn hạ 6 chiến xa T-54 và 16 PT-76 của địch mà không bị một tổn thất nào.<br />
<br />
Vị tư lệnh cuối cùng của binh chủng Thiết Giáp là chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp.<br />
Binh Chủng Pháo Binh<br />
<br />
Pháo binh Việt Nam xuất hiện trên chiến trường vào cuối năm 1951 với các đơn vị đầu tiên được gọi là Pháo Ðội Biệt Lập (Batterie de tir autonome). Sau đó, vào các năm 1952-1953, các pháo đội này được tập trung thành các tiểu đoàn pháo binh (Group d'artillerie). Các tiểu đoàn pháo binh Việt Nam, Pháo gọi là GAVN, gồm 3 pháo đội với 12 khẩu đại bác 105 ly. Sau đây là danh sách các tiểu đoàn pháo binh đầu tiên với ngày thành lập:<br />
<br />
- Tiểu Ðoàn 3 Pháo Binh, thành lập ngày 1 tháng 11 năm 1952 tại Bắc Việt.<br />
<br />
- Tiểu Ðoàn 2 Pháo Binh, thành lập ngày 1 tháng 3 năm 1953 tại Trung Việt.<br />
<br />
- Tiểu Ðoàn 4 Pháo Binh, thành lập ngày 1 tháng 3 năm 1953 tại Cao Nguyên.<br />
<br />
- Tiểu Ðoàn 1 Pháo Binh, thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1953 tại Nam Việt.<br />
<br />
Tuy được thành lập đã lâu, nhưng mãi tới tháng 10 năm 1954, các sĩ quan pháo binh Việt Nam mới đảm nhiệm chức vụ tiểu đoàn trưởng. Và mãi đến tháng 3 năm 1955, binh chủng Pháo Binh mới có vị chỉ huy trưởng đầu tiên. Một trong những vị chỉ huy trưởng lúc ban đầu rất nổi tiếng của Pháo Binh là tướng Nguyễn Ðức Thắng.<br />
<br />
Về sau, cùng với sự bành trướng của QLVNCH, binh chủng Pháo Binh cũng gia tăng nhanh chóng với các đơn vị pháo binh diện địa và di động đi theo các sư đoàn tổng trừ bị Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Vào năm 1972, khi chương trình hiện đại hoá QLVCH lên tới cao độ, có tới 58 tiểu đoàn Pháo Binh đồn trú khắp nơi trên các vùng Chiến Thuật.<br />
<br />
Pháo Binh, cùng với Không Quân và Hải Quân, được coi như là những vị cứu tinh của các tiền đồn bị cô lập hay các đơn vị bộ binh đang chạm địch. Với những khẩu đội pháo bắn tập trung và tiêu diệt, lợi điểm của Pháo Binh là có thể tác xạ yểm trợ lâu dài và hữu hiệu dưới mọi thời tiết.<br />
<br />
Nhưng rất tiếc khi chiến cuộc Việt Nam gần tàn vào những năm 1973-1974, khả năng hoạt động của Pháo Binh không còn được hữu hiệu như trước vì tình trạng đạn dược bị hạn chế. Hơn nữa, cả binh chủng Pháo Binh chỉ có một tiểu đoàn được trang bị đại pháo 175 ly có tầm bắn tương đương với trọng pháo 130 ly của địch quân lúc đó đang đầy rẫy khắp chiến trường. Ða số đại bác của ta là loại 105 ly và 155 ly với tầm bắn ngắn hơn trọng pháo của địch. Do đó, địch có thể pháo kích những căn cứ hỏa lực hay nơi đặt pháo mà ta không phản pháo được vì ngoài tầm tác xạ.<br />
Ðoàn Nữ Quân Nhân<br />
<br />
Thiết tưởng khi đề cập đến lịch sử của QLVNCH mà không nhắc đến Ðoàn Nữ Quân Nhân, có thể là một thiếu sót đáng trách. Những "đóa hoa nở trên đầu súng" này, tuy không trực tiếp xông pha nơi tuyến đầu, nhưng cũng đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng đại gia đình quân đội.<br />
<br />
Vào lúc cuộc chiến giữa hai phe Quốc Gia và Cộng Sản đang thời sôi động nhất, khi "lời sông núi giục vang bốn phương trời," đã có khá đông phụ nữa đi theo bước chân "Triệu Trưng xưa đẹp gương sáng muôn đời," gia nhập quân ngũ để đảm nhiệm những công tác xã hội.<br />
<br />
Sở xã hội được thành lập vào tháng 7 năm 1952 với khóa huấn luyện Nữ Trợ Tá đầu tiên được tổ chức vào ngày 21 tháng 8 năm 1952 tại trường Hồng Thập Tự Pháp. Từ đó, bóng dáng người phụ nữ Việt Nam trong quân phục đã trở thành khá quen thuộc trong một tập thể trước đây được coi là độc quyền của nam giới. Ðoàn Nữ Quân Nhân được chia làm hai thành phần chính: Nữ Phụ Tá (Personnel Auxilliaire Feminin, gọi tắt là PAF) đảm nhiệm những công tác văn phòng để nam quân nhân có thể cầm súng ra trận. Nữ Trợ Tá Xã Hội (Assistance Sociale hay Auxiliaire Sociale) chuyên lo công tác xã hội như cứu trợ gia đình hay săn sóc thương bệnh binh.<br />
<br />
Sở Xã Hội khi mới thành lập do phu nhân của thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh là một người Pháp điều khiển. Ðến tháng 4 năm 1954, Sở Xã Hội được mở rộng thành Nha Xã Hội và Văn Hóa. Về sau này, các Nữ Trợ Tá trở thành các Nữ Quân Nhân có mặt hầu hết trong các Quân Binh Chủng. Trong binh chủng Nhẩy Dù, thoạt đầu các Nữ Quân Nhân đảm trách việc xếp dù, sau đó họ học nhẩy dù và thành lập một toán Nữ Quân Nhân chuyên biểu diễn nhẩy dù rất thành thạo và ngoạn mục.<br />
<br />
Ðoàn Nữ Quân Nhân QLVNCH có nhiều cấp chỉ huy rất nổi tiếng như bà trung tá Vẽ, bà trung tá Hương, bà thiếu tá Hằng. Trường Nữ Quân Nhân sau này được thiết lập tại Phú Thọ. Khi tham dự các cuộc diễn binh hay lễ lớn, đoàn Nữ Quân Nhân thường diễn hành rất hùng dũng và nhịp nhàng, luôn luôn được hoan hô và tán thưởng nhiều nhất.<br />
<br />
.<br />
<br />
Quân Chủng Không Quân<br />
<br />
Quân chủng Không Quân Việt Nam (KQVN) được thành lập bởi Dụ Số 9 ngày 25 tháng 6 năm 1951, nhưng mãi tới tháng 6 năm 1952 mới bắt đầu chính thức hoạt động tại Nha Trang, nơi được xem như là cái nôi của Không Quân.<br />
<br />
Thoạt tiên, KQVN được nảy sinh ra từ lực lượng Không Quân Viễn Ðông Pháp (Forces Aeriennes en Extreme Orient), bắt đầu từ một trung tâm huấn luyện đặt tại bờ biển Nha Trang để huấn luyện phi công và quan sát viên trên phi cơ Morane 500 (máy bay Bà Già!). Lúc đầu, hầu hết các hoa tiêu và cơ khí viên đều được gửi đi thụ huấn tại các trường Không Quân ở Pháp và Bắc Phi Châu như Salon, Fes, Marrakech, Rochefort. Quân số Không Quân lúc thành lập chỉ độ 3,000 người.<br />
<br />
Bước sang năm 1961, vì nhu cầu chiến trường gia tăng để chống lại các cuộc tấn công của Cộng Sản, Không Quân Việt Nam được trang bị một cách tích cực bằng những loại phi cơ tối tân hơn và quân số đã gia tăng gấp 10 lần so với lúc thành lập. Nhiều phi trường cũng được cải tiến để tiếp nhận các oanh tạc cơ hạng nặng. Phi đạo tại các phi trường lớn như Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Ðà Nẵng được nối dài thành 10,000 bộ để trở thành phi trường quốc tế hạng A.<br />
<br />
Trong đợt đầu, vào năm 1962, KQVN đã có những phi đoàn sau đây: Phi Ðoàn Khu Trục trang bị phi cơ A-1H đồn trú tại Ðà Nẵng, Biên Hòa, và Bình Thủy. Ba (3) phi đoàn vận tải cơ C-47 cùng 2 phi đoàn C-119 và C-123 đồn trú tại Tân Sơn Nhất. Năm (5) phi đoàn Quan Sát. Ba (3) phi đoàn Trực Thăng. Và nhiều phi đoàn cho những phi vụ đặc biệt.<br />
<br />
Sau này, các phi cơ cánh quạt được thay thế bằng phi cơ phản lực tối tân, cùng hàng trăm phi cơ trực thăng UH-1H và Chinook CH-47. Vào tháng 7 năm 1964, Phi Ðoàn Khu Trục 524 tại Nha Trang là phi đoàn đầu tiên tiếp nhận phi cơ A-37, là loại chiến đấu phản lực 2 động cơ, đánh dấu KQVN tiến thêm một bước nữa vào "thời đại phản lực." Trong những năm kế tiếp, căn cứ Không Quân Biên Hòa thành lập thêm 3 phi đoàn chiến đấu cơ siêu thanh (supersonic fighter) F-5, là một trong những loại hiện đại nhất vào thời điểm này. Về ngành vận tải, Sư Ðoàn 5 Không Quân tại Tân Sơn Nhất cũng được trang bị thêm 2 phi đoàn vận tải bán phản lực với loại phi cơ C-130 Hercules.<br />
<br />
Ðể bảo trì và sửa chữa các loại phi cơ, một Không Quân Công Xưởng cũng được thiết lập tại Biên Hòa. Không Quân Công Xưởng này được trang bị rất tối tân với những chuyên viên bảo trì thuộc vào hàng giỏi nhất vùng Ðông Nam Á.<br />
<br />
Vào lúc cao điểm của chiến tranh Việt Nam, Không Lực Việt Nam có quân số lên đến 60,000 người với khoảng 1,860 phi cơ kể cả trực thăng. Không Quân Việt Nam đã có lúc được coi là hùng hậu nhất Ðông Nam Á và đứng vào hàng thứ tư trên thế giới, được tổ chức thành 6 Sư Ðoàn Không Quân Chiến Thuật, phối trí như sau: Sư Ðoàn 1 Không Quân: Vùng 1 Chiến Thuật. Sư Ðoàn 2 và Sư Ðoàn 6 Không Quân: Vùng 2 Chiến Thuật. Sư Ðoàn 3 và Sư Ðoàn 5 Không Quân: Vùng 3 Chiến Thuật. Sư Ðoàn 4 Không Quân: Vùng 4 Chiến Thuật.<br />
<br />
.<br />
<br />
Quân Chủng Hải Quân<br />
<br />
Vào khoảng đầu năm 1951, tuy Hải Quân Việt Nam chưa chính thức ra đời, nhưng đã có nhiều Liên Ðoàn Tuần Giang (tiếng Pháp gọi là Garde Auxiliaire Escadrille Fluviale, gọi tắt là GAEF) được thành lập để đáp ứng như cầu hành quân trên sông ngòi toàn lãnh thổ Việt Nam. Các Liên Ðoàn Tuần Giang (LÐTG) này được phân phối như sau:<br />
<br />
LÐTG số 1, đồn trú tại Sài Gòn, gồm có 4 Ðoàn Tuần Giang (ÐTG):<br />
<br />
ÐTG 1 đóng tại Cần Thơ.<br />
ÐTG 2 đóng tại Mỹ Tho.<br />
ÐTG 3 đóng tại Vĩng Long.<br />
ÐTG 4 đóng tại Sài Gòn. <br />
<br />
- LÐTG số 2, đồn rú tại Huế, chỉ có một ÐTG độc nhất cũng đóng tại Huế.<br />
<br />
- LÐTG số 3, đồn trú tại Hà Nội, gồm có 3 ÐTG:<br />
<br />
ÐTG 1 đóng tại Hà Nội.<br />
ÐTG 2 đóng tại Hải Phòng.<br />
ÐTG 3 đóng tại Nam Ðịnh. <br />
<br />
Trên lý thuyết, mỗi Bộ Chỉ Huy LÐTG gồm 2 sĩ quan, 2 hạ sĩ quan, 9 binh sĩ, và có một tàu chỉ huy. Mỗi ÐTG có 1 sĩ quan, 15 hạ sĩ quan, 76 binh sĩ, và 6 tầu Vedettes. Tuy nhiên, quân số và chiến đĩnh thuộc mỗi ÐTG được du di tùy theo nhu cầu chiến trường. Quân số tổng cộng của các LÐTG là 920 người. Vì lúc đó Hải Quân chưa được thành lập nên những LÐTG được đặt dưới quyền của Vệ Binh Quốc Gia (GA). Có thể nói những LÐTG là thủy tổ của Hải Quân Việt Nam lúc chưa thành hình.<br />
<br />
Tưởng cũng nên nhắc lại vào thời gian đó cũng có những đại đội Commando chuyên đánh thủy như các đại đội Ouragan, Tempete, Jaubert, Montfort. Ta cũng có thể nói những đại đội "lính bộ đánh thủy" này là tiền thân của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến sau này.<br />
<br />
<br />
Trước đó, vào năm 1950, đã có một số thanh niên Việt Nam được gửi sang Pháp thụ huấn các khóa ngắn hạn tại trường Hải Quân Brest. Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân (TTHLHQ) Nha Trang được khởi công xây cất vào tháng 11 năm 1951. Sau đây là những thơi điểm chính trong lịch sử hình thành Hải Quân Việt Nam (HQVN).<br />
<br />
- Ngày 6 tháng 3 năm 1952: Hải Quân Việt Nam được chính thức thành lâp bởi Dụ Số 2.<br />
- Ngày 20 tháng 5 năm 1952: Thành lập Bộ Tư Lệnh HQVN.<br />
- Ngày 12 tháng 7 năm 1952: Khánh thành TTHLHQ. Ðô đốc Ortoli (Pháp) chủ tọa.<br />
- Tháng 9 năm 1952: Khóa 1 SQHQ Nha Trang ra trường, gồm 9 sĩ quan.<br />
- Tháng 10 năm 1952: sáu người được tuyển chọn đi học khóa SQHQ tại Brest (Pháp).<br />
<br />
- Ðầu năm 1953: Hai đoàn tiểu đĩnh được biến cải thành hai Hải Ðoàn Xung Phong đầu tiên đóng tại Cần Thơ và Vĩnh Long. Hải Ðoàn Xung Phong Cần Thơ là đơn vị Hải Quân đầu tiên có chiến đĩnh mang quốc kỳ Việt Nam trên kỳ đài. Mãi đến đầu năm 1954, một Hải Ðoàn Xung Phong thứ ba mới được thành lập để tham chiến tại vùng trung châu Bắc Việt.<br />
<br />
Tháng 4 năm 1953: Pháp chuyển giao cho HQVN một Giang Pháo Hạm (Landing Ship Infantry Large, gọi tắt là LSIL). Chiến hạm này vẫn mang cờ Pháp.<br />
<br />
- Ðầu năm 1954: Quân số HQVN gồm có 22 sĩ quan và 984 hạ sĩ quan và đoàn viên.<br />
<br />
- Ngày 30 tháng 6 năm 1955, thủ tướng Ngô Ðình Diệm chỉ định tướng Trần Văn Ðôn chỉ huy HQVN. Như vậy, tuy đã chuyển gia một số đơn vị cho HQVN, sĩ quan Pháp vẫn tiếp tục chỉ huy HQVN cho đến đầu năm 1955.<br />
<br />
- Vào năm 1950 đã có 8 sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ trong phái bộ MAAG (Military Assistance Advisory Group) nhưng mãi đến năm 1954 mới có cố vấn Hoa Kỳ trong Hải Quân Việt Nam.<br />
<br />
- Ngày 20 tháng 8 năm 1955: Quân đội Pháp chính thức chuyển giao quân chủng Hải Quân cho QLVNCH (cùng ngày với Không Quân). Hải Quân Thiếu Tá Lê Quang Mỹ được thủ tướng Ngô Ðình Diệm bổ nhiệm chức vụ Tư Lệnh Hải Quân đầu tiên (kiêm tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến).<br />
<br />
- Ngày 7 tháng 11 năm 1955: Pháp chuyển giao TTHL/HQ Nha Trang cho HQVN. Tính cho đến cuối năm 1955, Pháp đã chuyển giao cho HQVN những đơn vị sau đây:<br />
<br />
-- 4 Hải Ðoàn Xung Phong: HDXP 21 đóng tại Mỹ Tho, 23 đóng tại Vĩnh Long, 24 đóng tại Sài Gòn, 25 đóng tại Cần Thơ.<br />
<br />
-- 3 căn cứ Hải Quân: Sài Gòn, Cát Lái, và Ðà Nẵng.<br />
<br />
-- 4 đồn Hải Quân tại Mỹ Tho, Cần Thơ, Vĩnh Long, và Long Xuyên.<br />
<br />
-- Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang.<br />
<br />
-- Hải Quân Công Xưởng Sài Gòn (Ba Son).<br />
<br />
-- Kho đạn Thành Tuy Hạ. <br />
<br />
Lúc đó, HDXP 22 đã được thành lập và di chuyển từ miền Bắc vào, nhưng giang đĩnh bị thiệt hại khá nặng nên phải giải tán và sát nhập vào HDXP 21.<br />
<br />
- Tháng 7 năm 1955: Bảng cấp số lý thuyết của Hải Quân được chấp thuận, tăng quân số lên 4,250 người. Lúc đó, quân số Hải Quân đã có 3,858 người phân chia như sau:<br />
<br />
-- Hải Quân chính thức: 2,567 người gồm 190 sĩ quan, 2,377 hạ sĩ quan và đoàn viên.<br />
<br />
-- Thủy Quân Lục Chiến: 1,291 người, gồm 43 sĩ quan, 257 hạ sĩ quan và 991 binh sĩ. <br />
<br />
Sau khi được chuyển giao, HQVN chia thành ba lực lượng chính sau đây:<br />
<br />
1. Hải Trấn: Gồm 4 Duyên Khu (Phú Quốc, Nha Trang, Vũng Tầu, Ðà Nẵng). TTHL/HQ Nha Trang và ba Thủy Xưởng (miền đông: Sài Gòn, miền tây: Cần Thơ, miền trung: Ðà Nẵng).<br />
<br />
2. Hải Lực: Gồm có các chiến hạm tuần tiễu hay yểm trợ ven biển:<br />
<br />
- 5 tuần duyên hạm (PC - Patrol Craft): HQ 01 Chi Lăng, HQ 02 Vạn Kiếp, HQ 04 Tụy Ðộng, HQ 05 Tây Kết, HQ 06 Vân Ðồn.<br />
<br />
- 3 trục lôi hạm (YMS - Yatch Mine Sweeper - tàu rà mìn): HQ 111 Hàm Tử, HQ 112 Chương Dương, HQ 113 Bạch Ðằng.<br />
<br />
- 2 Trợ Chiến Hạm (LSSL - Landing Ship Support Large): HQ 225 Nỏ Thần, HQ 226 Linh Kiếm.<br />
<br />
- 5 Giang Pháo Hạm (LSIL - Landing Ship Infantry Large): HQ 327 Long Ðao, HQ 328 Thần Tiễn, HQ 329 Thiên Kích, HQ 330 Lôi Công, HQ 331 Tầm Sét.<br />
<br />
- 4 Hải Vận Hạm (LSM - Landing Ship Medium): HQ 400 Hát Giang, HQ 401 Hàn Giang, HQ 402 Lam Giang, HQ 403 Ninh Giang. <br />
<br />
3. Giang Lực: gồm một số tầu trục vớt trong sông và quân vận đĩnh (LCU - Landing Craft Utility) và năm Hải Ðoàn Xung Phong được phân phối như sau:<br />
<br />
- HDXP 21 đóng tại Mỹ Tho.<br />
- HDXP 23 đóng tại Vĩnh Long.<br />
- HDXP 24 đóng tại Sài Gòn.<br />
- HDXP 25 đóng tại Cần Thơ.<br />
- HDXP 26 đóng tại Long Xuyên. <br />
<br />
(Lúc đó vì HDXP 22 bị thiệt hại nặng ngoài Bắc Việt, nên khi di chuyển vào Nam được sát nhập vào HDXP 21).<br />
<br />
Tháng 5 năm 1957: Các sĩ quan HQ Pháp cuối cùng rời khỏi TTHL/HQ Nha Trang. SQHQ Việt Nam hoàn toàn đảm trách việc huấn luyện.<br />
<br />
Năm 1958: Khóa 8 Ðệ Nhất Hổ Cáp là khóa SVSQ/HQ đầu tiên được chính SQ Hải Quân VN tuyển mộ và huấn luyện.<br />
<br />
Trong khoảng 10 năm từ 1958 tới 1968, Hải Quân Việt Nam tiếp tục bành trướng mạnh mẽ, cả về quân số lẫn chiến hạm. Nhiều nhân viên được gửi đi thụ huấn tại ngoại quốc và Hoa Kỳ cũng chuyển giao nhiều chiến hạm. Vào tháng 11 năm 1969, trong khuôn khổ kế hoạch "Việt Hóa Cuộc Chiến" (Vietnamization) và "Chuyển Giao Cấp Tốc" (Accelerated Turn Over to the Vietnamese - ACTOV), chỉ trong một thời gian ngắn, HQVN nhận được trên 500 chiếnhạm và chiến đỉnh đủ loại. Cho tới tháng 4 năm 1975, quân số của Hải Quân lên đến gần 43,000 người với khoảng 1,600 chiến hạm và chiến đỉnh đủ loại.<br />
<br />
Tưởng cũng nên nhắc nhở là Hải Quân Công Xưởng (còn được gọi là Sở Ba Son) là môt thủy xưởng được thiết lập ngay trên bờ sông Sài Gòn từ thế kỷ thứ 19, trên một khu đất rộng chừng 53 mẫu tây. Thủy xưởng này có nhiều ụ nổi đủ sức tân trang và đại kỳ những chiến hạm cỡ lớn.<br />
<br />
Các đại đơn vị thuộc quân chủng Hải Quân được tổ chức như sau.<br />
<br />
Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sông, gồm có:<br />
<br />
1. Vùng III Sông Ngòi đóng tại Sài Gòn, chỉ huy các Giang Ðoàn Xung Phong.<br />
<br />
2. Vùng IV Sông Ngòi đóng tại Cần Thơ, chỉ huy các Giang Ðoàn Xung Phong.<br />
<br />
3. Lực Lượng Thủy Bộ (LL Ðặc Nhiệm 211) đóng tại Bình Thủy, chỉ huy các Giang Ðoàn Thủy Bộ.<br />
<br />
4. Lực Lượng Tuần Thám (LL Ðặc Nhiệm 212) đóng tại Châu Ðốc, chỉ huy các Giang Ðoàn Tuần Thám.<br />
<br />
5. Lực Lượng Trung Ương (LL Ðặc Nhiệm 214) đóng tại Ðồng Tâm, chỉ huy các Giang Ðoàn Ngăn Chận.<br />
<br />
Bộ Tư Lệnh Hành Quân Biển, gồm có:<br />
<br />
1. Hạm Ðội: Chia thành Hải Ðội I Tuần Duyên, Hải Ðội II Chuyển Vận, và Hải Ðội III Tuần Dương, gồm nhiều chiến hạm đủ loại, đủ cỡ hoạt động trong sông cũng như ngoài biển, từ vĩ tuyến 17 đến Vịnh Thái Lan.<br />
<br />
2. Các vùng duyên hải: Chỉ huy các Duyên Ðoàn, Giang Ðoàn, Ðài Kiểm Báo, Hải Ðội Duyên Phòng, Tiền Doanh Yểm Trợ. Mỗi vùng duyên hải chịu trách nhiệm một vùng bờ biển.<br />
<br />
- Vùng I Duyên Hải, đóng tại Ðà Nẵng, chịu trách nhiệm từ vĩ tuyến 17 đến Quảng Ngãi.<br />
<br />
- Vùng II Duyên Hải, đóng tại Cam Ranh, chịu trách nhiệm từ Bình Ðịnh đến Phan Thiết.<br />
<br />
- Vùng III Duyên Hải, đóng tại Vũng Tàu, chịu trách nhiệm từ Phước Tuy tới Kiến Hòa.<br />
<br />
- Vùng IV Duyên Hải, đóng tại Phú Quốc, chịu trách nhiệm từ Mũi Cà Mau đến biên giới Miên-Việt trong vịnh Thái Lan.<br />
<br />
- Vùng V Duyên Hải, đóng tại Năm Căn, chịu trách nhiệm vùng biển Ba Xuyên, An Xuyên, một phần tỉnh Kiên Giang và các hải đảo như Poulo Obi.<br />
Kết luận<br />
<br />
Khi đề cập đến chiến tranh là nói đến tàn phá và chết chóc (nhất tướng công thành vạn cốt khô!), nhưng ngoài việc hy sinh xương máu để bảo vệ tổ quốc, QLVNCH cũng đã đóng góp đắc lực vào việc xây dựng đất nước. Các doanh trại hàng hàng lớp lớp, các hải cảng, giang cảng tối tân có thể đón nhận những thương thuyền cỡ lớn, những phi trường quốc tế hạng A, những cầu cống tối tân do Công Binh xây cất đã từng thay đổi hẳn bộ mặt quê hương Việt Nam, tự một thuộc địa nghèo nàn dưới sự cai trị của thực dân Pháp gần 100 năm, thành một quốc gia tiến bộ vào bậc nhất trong vùng Ðông Nam Á.<br />
<br />
Riêng Quân Lực VNCH, thoát thai từ một đội quân phụ thuộc vào lực lượng viễn chinh Pháp, không có chính nghĩa quốc gia, nhưng sau này đã trở thành một quân lực hùng mạnh dưới thời đệ nhất Cộng Hòa vào năm 1955 cho tới khi tàn cuộc chiến. Biến cố đau thương vào tháng 4 năm 1975 đã bức tử quân đội miền Nam, nhưng dư âm và hình ảnh oai hùng của người lính chiến VNCH vì dân trừ bạo vẫn còn ghi sâu vào tâm khảm mọi người.<br />
<br />
Cuộc đời như "như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao," như "bóng câu qua cửa sổ". Mười mấy tám năm trôi qua như gió thoảng ngoài hiên, nhưng đối với người lính chiến Việt Nam, dù lưu lạc nơi đâu vẫn tưởng như đêm nào còn ôm súng chờ giặc nơi tuyến đầu. Mỗi khi nhắc đến quá khứ, người ta cho đó chỉ là "vang bóng một thời." Nhưng đối với những chiến sĩ QLVNCH, những người trong cuộc, những người đã từng cầm súng đánh lại bọn Cộng Sản vong nô, những chứng nhân hào hùng và đau thương của cuộc chiến, sẽ không thể nào quên được một tập thể trong đó họ đã đóng góp biết bao xương máu và cả tuổi hoa niên. Mỗi khi nhắc đến lịch sử oai hùng của QLVNCH, những người lính chiến Việt Nam tưởng như nhắc lại chính cuộc đời mình và những trách nhiệm cũng như bổn phận đối với đất nước chưa làm tròn.<br />
<br />
Vì vậy, dù không còn được cầm súng giết giặc ngoài sa trường, nhưng người lính QLVNCH vẫn bền gan đấu tranh trên các mặt trận chính trị, văn hóa, kinh tế, cho đến khi nào gót thù không còn giầy xéo trên quê hương và thanh bình thịnh vượng thật sự trở về với quốc gia dân tộc. Nếu vì hoàn cảnh bó buộc không thể trực diện đấu tranh với bọn Cộng Sản bạo tàn, ít ra chúng ta cũng không hèn nhát, không phản bội quê hương hay đâm sau lưng đồng đội bằng cách bắt tay với giặc thù dù dưới chiêu bài đẹp đẽ đến đâu đi nữa.<br />
<br />
Mọi ý đồ, tham vọng đen tối, ngông cuồng và man rợ của bất cứ cá nhân, đoàn thể hay đảng phái nào đi ngược lại với quyền lợi tối thượng của dân tộc trước sau thế nào cũng bị thất bại. Những chiến sĩ QLVNCH chân chính và xứng đáng luôn luôn sáng suốt để phục vụ cho chính nghĩa quốc gia dân tộc.<br />
<br />
<br />
Trần Hội &Trần Ðỗ Cẩm (camtran11@yahoo.com)<br />
(Trích Nguyệt San Ðoàn Kết (Austin, TX) số 40, tháng 6 năm 1993)</span>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com2tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-45016037113690876882009-08-04T07:34:00.000-07:002009-08-04T07:39:52.461-07:00Cap Bac QLVNCH<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgCBheUrHxcgFUVpFVhqIAE7QkZTPzWrcql3MaiVLGoCM5430U8bk-ljTM9e3Y3XixhSEv4dB3OZub3RcNDuMlPw79Ysj6Is-gCbpu-qnc6Kquy2b0dQ7-30nzlJ_0t9MFqC3O6EfNpWtA/s1600-h/img161rankrevised.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 214px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgCBheUrHxcgFUVpFVhqIAE7QkZTPzWrcql3MaiVLGoCM5430U8bk-ljTM9e3Y3XixhSEv4dB3OZub3RcNDuMlPw79Ysj6Is-gCbpu-qnc6Kquy2b0dQ7-30nzlJ_0t9MFqC3O6EfNpWtA/s400/img161rankrevised.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5366118339434245538" /></a>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-80912310179126163612009-07-27T23:33:00.001-07:002009-07-30T16:35:47.004-07:00Tình Khúc Thời Chinh Chiến<a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj1GaCSQhV7C9jlyjykXjeR2hQpBDRCI8EXmOLzDNU5dmTr3m-nTkfZ_siRR6QJLxfyzLOP4gNAzP4NLBkqhCyKOXj4xd8ZH6qErmMETKpVjcOm7bwcmnjPJmaIq3g1_9Gcq6aPEHPjv08/s1600-h/291209033_4ec3400a5b.jpeg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 300px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj1GaCSQhV7C9jlyjykXjeR2hQpBDRCI8EXmOLzDNU5dmTr3m-nTkfZ_siRR6QJLxfyzLOP4gNAzP4NLBkqhCyKOXj4xd8ZH6qErmMETKpVjcOm7bwcmnjPJmaIq3g1_9Gcq6aPEHPjv08/s400/291209033_4ec3400a5b.jpeg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5364401014486291730" /></a><br /><span style="font-weight:bold;">Ca Sĩ Lệ Hằng Thành Công: Tình Khúc Thời Chinh Chiến Việt Báo Thứ Ba, 7/28/2009, 12:00:00 AM<br /><br />Ca Sĩ Lệ Hằng Thành Công: Tình Khúc Thời Chinh Chiến<br /><br />Ca sĩ Lệ Hằng đã tổ chức thành công đêm nhạc Những Tình Khúc Thời Chinh Chiến.<br /> Westminster (VB) - Trong tinh thần ca tụng người Lính QLVNCH, ca sĩ Lệ Hằng đã tổ chức một buổi văn nghệ mang chủ đề Những Tình Khúc Thời Chinh Chiến để Vinh Danh các anh chiến sĩ QLVNCH.<br />Ca sĩ Lệ Hằng người đã từng có 2 CD hát về Lính và đã tái bản nhiều lần, và vẫn thích hát để vinh danh các anh quân nhân QLVNCH.<br />Đặc biệt, chương trình văn nghệ mang nội dung Vinh Danh người Lính QLVNCH với đủ 3 quân chủng Hải, Lục và Không Quân cũng nhờ với sự dàn dựng và đạo diễn bởi phu quân của ca sĩ Lệ Hằng -- Anh cũng là một người lính trong binh chủng Biệt Động Quân và Thương Phế Binh sau trận đánh tại Sóc Con Trăng của Tiểu đoàn 52 BĐQ; tiểu đoàn được cộng quân đặt tên là Sấm Sét Miền Đông. <br />Bản hợp ca mở đầu chương trình với tất cả các nghệ sĩ và quân nhân mặc quân phục qua nhạc phẩm “Biệt Kinh Kỳ”: “Bạn ơi mai ngày ai hỏi đến tên tôi, bạn ơi hãy nói khoác chiến y rồi…” Bản nhạc mở đầu chương trình cũng là bước khởi đầu của người trai thời loạn trong đời quân ngũ. Sau đó “Chúng Mình 3 Đứa” với 3 bộ quân phục Hải Quân (Xuân Hương), Lục Quân (Lệ Hằng-BĐQ) và Không Quân (Mộng Thu) từ giã quân trường đi phục vụ tại các đơn vị Hải-Lục-Không quân. Kế tiếp nhạc phẩm “10 Năm Tái Ngộ” đã nói lên những sự thật đời lính, tình bạn vì bận rộn đời lính vất vả với quân hành sau ngày ra đơn vị, nhiều khi 10 năm chưa gặp hoặc đôi khi có lẽ không bao giờ có dịp gặp nhau, vì giã từ vũ khí đi về lòng đất mẹ trong giấc ngủ thiên thu. Chương trình liên tục với các nhạc phẩm hoàn toàn nói về lính liên tục gần một tiếng rưỡi như “Một Chuyến Bay Đêm”, “Vùng Biển Trời và Màu Áo Em”, “Anh Không Chết Đâu Em”, “Anh Về Với Em”, “Người Yêu Của Lính”, “Áo Cưới Màu Hoa Cà”, “Đêm Nguyện Cầu”, “Sao Rơi Trên Biển”, “Tạ Từ Trong Đêm”. <br />Chương trình được chấm dứt với một nhạc cảnh đầy cảm động qua tiếng hát của Lệ Hằng “Cho Người Vào Cuộc Chiến”, bản nhạc đề cao sự hi sinh và chiến đấu dũng cảm của các chiến sĩ QLVNCH, những người đã xả thân vì lý tưởng quốc gia, bảo vệ quê hương đất nước. Những người hi sinh đời sống gia đình, cá nhân để tương lai “dù anh trở về trên đôi nạng gỗ, dù anh trở về bằng chiếc xe lăn hay anh trở về bằng những chiến công đầy.” Như nhạc sĩ Phan Trần đã viết: Lôi hổ Phạm Hòa trong quân phục tác chiến với những huy chương trên ngực; mũ Nâu Nguyễn Phú Thuận cụt 2 chân và một tay ngồi trên chiếc xe lăn và mũ Nâu Nguyễn Phương Hùng cụt một chân. Ba biểu tượng cho hình ảnh của cuộc chiến theo lời nhạc là 3 hình ảnh một cuộc đời người lính chiến. Hình ảnh oai hùng lẫn bi thương, buồn vui trộn lẫn ghi lại những góc cạnh của cuộc chiến gói trọn trong sân khấu nhà hàng Paracel Seafood. Ba nữ khán giả trong bàn của luật sư Lâm Anh Tuấn đã lên choàng 3 vòng hoa cho 3 chiến sĩ biểu tượng cho hình ảnh người Lính VNCH. Riêng ca sĩ Lệ Hằng đã được chị Kim Thoa, một mạnh thường quân tặng một bó hoa hồng lớn, 24 bông hồng cho Lệ Hằng và ông bầu Phương Hùng. <br />Trong phần giới thiệu quan khách ông bầu Phương Hùng với tư cách là trưởng ban tổ chức đã đọc tâm thư cảm tạ của ca sĩ Lệ Hằng. Lời thư rất cảm động, nên Lệ Hằng không thể đọc vì không cầm được nước mắt xúc động. Dân biểu Trần Thái Văn vì bận họp chung quyết về ngân sách tài chánh của tiểu bang không kịp về tham dự, nhưng đã gửi đại diện. Các nghị viên Dina Nguyễn, Andy Quách, Tạ Đức Trí, Diệp Miên Trường và Andrew Nguyễn Ủy viên Giáo Dục Westminster đã đến chung vui. Một vị khách rất đặc biệt là ông Richard Botkin, tác giả cuốn sách viết về chiến tranh Việt Nam “Ride The Thunder”, tạm dịch “Vào Vùng Sấm Sét” cuốn sách dày hơn 600 trang viết về trận đánh cầu Đông Hà của khoảng 700 chiến sĩ Tiểu Đoàn 3 Sói Biển Thuỷ Quân Lục Chiến trực diện với 20 ngàn quân Bắc Việt với chiến xa và pháo binh tối tân yểm trợ. Ngoài ra còn có những quan khách đến từ Santa Barbara, San Fernando Valley và San Diego như hội Không Quân và Bạc Liêu San Diego. Tập Thể Chiến Sĩ VNCH và Liên Hội cựu Chiến Sĩ Nam California, hội Gia Đình Mũ Đỏ, Hải Quân, Pháo Binh, Quân Cảnh, Đồng Đế, cựu SVSQ Thủ Đức OC và Phụ Cận, Bạc Liêu, Long Xuyên, Hàng Hải Thương Thuyền, Nha Trang, nhóm thân hữu HQ Trần Đức Cử, nhóm thân hữu Vũ Hưng và một số cơ quan báo chí truyền thông. Nhóm thân hữu Nguyễn Hùng đơn vị 101 và Thủ Đức từ Denver về tham dự đã bị trễ máy bay. </span>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-22164107990960385962009-07-13T22:54:00.001-07:002009-07-13T22:54:23.664-07:00Khe Sanh<span style="font-weight:bold;">Trận Chiến Khe Sanh <br />Linh Vũ , Jan 24, 2009 <br /> <br />Trong một tuần qua trên các báo chí cũng như những diễn đàn đều có post bài dịễn văn nhậm chức của Tổng Thống Barack Hussein Obama thứ 44 của Hoa Kỳ trong đó ông đã nhắc đến điạ danh 'Khe Sanh' vùng cực Bắc Nam Việt. Địa danh Khe Sanh không chỉ có những người lính của hai miền Nam Bắc Việt Nam biết đến mà hầu như những cựu chiến binh Hoa Kỳ đã từng tham chiến ở VN đều không thể quên được trong suốt hơn 42 năm qua. Trận chiến Khe Sanh một trong những trận chiến lớn nhất thế giới ngang tầm vóc với các trận như Concord , Gettyburg và Normandy . Một điạ danh nơi đèo heo hút gió đã viết đậm nét trong trang quân sử Hoa Kỳ và Quân Lực VNCH. <br /><br />Khe Sanh như thế nào mà bài diễn văn nhậm chức của Tổng Thống Hoa kỳ phải nhắc đến và người Việt chúng ta khi nghe đến điạ danh đó đều bùi ngùi xúc động. Và trong những bài dịch, một số dịch gỉa không biết vô tình hay cố ý đã bỏ sót điạ danh ' Khe Sanh' đã làm cho nhiều người trong cộng đồng bất mãn. Sau đây tôi xin mượn bài viết của Phạm Cường Lễ ' Khe Sanh 77 ngày trong năm 1968' để chúng ta nhìn lại trang sử Việt và cho những ai chưa từng biết Khe Sanh là gì có cơ hội tìm hiểu Khe Sanh như thế nào?<br /><br />1. Khe Sanh Bẩy Mươi Bẩy Ngày Trong Một Nghìn Chín Trăm Sáu Mươi Tám <br /><br />KHE SANH... một địa danh đèo heo hút gió ở vùng cực bắc Nam Việt Nam cách vùng Phi Quân Sự 14 miles (23 km) về phía Nam, và 6 miles (10 km) về phía Đông của vương quốc Làọ Nếu không có chiến tranh, nét yên tĩnh và phong cảnh nơi đây có thể sẽ được kể là một trong những gì đẹp nhất trên lãnh thổ Việt Nam. Nhưng kể từ tháng 5 năm 1959, nét an lành của thiên nhiên tại nơi này bắt đầu bị giao động. Năm đó, bộ đội Bắc Việt thiết lập hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh để khởi động công cuộc xâm lăng miền Nam . Lúc ấy, Khe Sanh chưa phải là căn cứ hay tiền đồn. Nhưng vì nằm gần biên giới và giáp ranh Đường Số 9 --trục lộ giao điểm của ba quốc gia Nam Việt, Bắc Việt, Lào-- nên Khe Sanh đã nghiễm nhiên trở thành một trong những cứ điểm quan trọng nhất trên bản đồ của cuộc chiến Việt Nam. <br /><br />Đến 1967, các hoạt động của Cộng quân quanh vùng này bắt đầu gặp nhiều khó khăn. Quân đội Hoa Kỳ tăng cường quân số ở vùng nàỵ Họ tu bổ để Khe Sanh để trở thành một tiền đồn kiên cố. Khe Sanh nằm sát biên giới Việt-Lào, cạnh bên Quốc Lộ 9, án ngữ cửa ngõ xâm nhập của Bắc Việt vào Nam Việt Nam ở tỉnh Quảng Trị. Khi Hoa Kỳ tăng cường lực lượng quân sự để giữ Khe Sanh, tướng Võ Nguyên Giáp của Bắc Việt đã có kế hoạch bao vây để biến nơi này thành Điện Biên Phủ của người Mỹ. <br /><br />Năm 1968, Khe Sanh trở thành một địa danh nổi tiếng nhất nhì thế giớị Nhưng đó chẳng phải vì nổi tiếng qua phong cảnh đẹp nhất, khí hậu trong lành nhất, hoặc có du khách ngoại quốc đến thăm nhiều nhất. Khe Sanh thật sự đã nổi tiếng vì có nhiều trận đánh lớn xảy ra tại vùng này trong hai năm 1967 và 1968. <br /><br />Một Nghìn Chín Trăm Sáu Mươi Tám là thời điểm mà Khe Sanh được nhắc nhở đến nhiều nhất. Đó là thời điểm của Trận Chiến Tết Mậu Thân khi Việt Cộng mở chiến dịch tổng tấn công trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòạ Trong chiến dịch này, 20,000 bộ đội Bắc Việt đã được huy động để bao vây 6,000 Thủy Quân Lục Chiến cùng khoảng 200 tay súng Biệt Đ���ng Quân miền Nam. Nhưng Khe Sanh đã chẳng thất thủ. Trận chiến trận kéo dài 77 ngày với Cộng quân hứng chịu hơn 10,000 tổn thất. <br /><br />o O o <br /><br />Nằm trên một vùng cao nguyên rộng lớn, bao quanh bởi núi đồi và cây rừng trùng điệp, Khe Sanh là một căn cứ quân sự vô cùng quan trọng ở tỉnh Quảng Trị. Năm 1962, căn cứ này được Lực Lượng Đặc Biệt Mũ Xanh (Green Berets) Hoa Kỳ xử dụng đầu tiên làm nơi xuất phát các phi vụ thám thính đi sâu vào vùng đất Làọ Vị trí chiến lược của Khe Sanh do đó đã gây nhiều trở ngại lớn lao cho công cuộc xâm lăng miền Nam của Cộng Sản Bắc Việt. <br /><br />Năm 1966, Bắc Việt phản ứng mạnh mẽ bằng cách dùng trọng pháo bắn vào Khe Sanh. Cũng trong năm này, Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ có mặt tại Khe Sanh để canh gác và ngăn chận các cu ộc xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) từ bên Làọ Giữa năm 1967, nhiều vụ chạm súng lẻ tẻ xảy ra quanh khu vực. Rồi sau đó là các trận chiến lớn dành giật những ngọn đồi được kéo dài đến gần cuối tháng 1 năm 1968 thì chiến trường bùng nổ dữ dộị Ba sư đoàn chính quy Bắc Việt bao vây, pháo kích, và dùng chiến thuật xa-luân-chiến đánh Khe Sanh trong 77 ngàỵ Như đã nhắc đến ở phần trên, quân Bắc Việt bị đại bại với từ 10,000 đến 13,000 cán binh tử thương (Tom Carhart: Batles And Campaigns In Vietnam, tr.130). Trong khi đó, lực lượng trú phòng Khe Sanh chỉ bị thiệt hại nhẹ. Hoa Kỳ có 199 binh sĩ Mỹ chết và 1,600 bị thương. Về phía Việt Nam Cộng Hòa, tổn thất gồm 34 quân nhân tử trận và 184 thương binh (Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-75, tr.175). <br /><br />MẶT TRẬN VÙNG KHE SANH NĂM 1967 <br /><br />Vào tháng 3 năm 1967, căn cứ Khe Sanh được phòng thủ vỏn vẹn chỉ bởi một đại đội Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Lúc đầu, hỏa lực tại đây chỉ gồm một pháo đội 105 ly, 2 khẩu 155 ly, cùng 2 súng cối loại 4.2 inch. Lực lượng yểm trợ gồm một đại đội Địa Phương Quân (ĐPQ) và một toán TQLC Hoa Kỳ đóng ở làng Khe Sanh (ngôi làng này cũng tên là Khe Sanh) cách căn cứ chỉ hơn 2 miles (3.5 km). Và tất cả đều được yểm trợ bởi các khẩu pháo binh 155 ly và 175 ly ở hai căn cứ hỏa lực Carroll và Rock Pile gần đó. <br /><br />Ngày 24 tháng 4 năm 1967, một toán Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ bất ngờ đụng độ với bộ đội Bắc Việt ở một địa điểm về phía Bắc của Đồi 861. Sau đó tinh tình báo cho biết quân chính quy Bắc Việt đã tập trung đông đảo quân số về vùng nàỵ Các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến lập tức được lệnh tăng cường cho Khe Sanh. <br /><br />Ngày 25 tháng 4, Tiểu Đoàn 3/3 (đọc là "Tiểu Đoàn 3 thuộc Trung Đoàn 3") TQLC Hoa Kỳ đến Khe Sanh. Sang ngày hôm sau, Tiểu Đoàn 2/3 TQLC lập tức tăng cường. Sang đến ngày 27, Pháo Đội B thuộc Tiểu Đoàn 1/12 Pháo Binh có mặt tại căn cứ. <br /><br />Ngày 28 tháng 4 năm 1967, sau khi được pháo binh yểm trợ, Tiểu Đoàn 2/3 TQLC Hoa Kỳ tiến chiếm Đồi 861. Cùng lúc đó, Tiểu Đoàn 3/3 cũng mở cuộc tấn công lên Đồi 881. Đây là những cụm đồi nằm gần Khe Sanh, và đã được quân đội Hoa Kỳ chọn làm những tiền đồn bảo vệ căn cứ. Trong những ngày tiếp đến, lực lượng Cọp Biển Hoa Kỳ lần lượt chiếm hết những cao điểm lân cận: đó là các ng���n đồi 861, 881-Bắc, và 881-Nam. <br /><br />Ngày 13 tháng 5/1967, Đại Tá J.J. Padley nhậm chức chỉ huy trưởng căn cứ Khe Sanh, thay thế Đại Tá J.P. Lanigan. Lúc đó, lực lượng phòng thủ được tăng cường thêm 3 tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 26 TQLC để thay thế cho Trung Đoàn 3. Trong khi ấy, từ 24 tháng 4/1967 đến 12 tháng 5/1967, bộ đội Bắc Việt tiếp tục công kích với nhiều màn chạm súng lẻ tẻ. Các vụ đụng độ này đã gây tử thương cho 155 binh sĩ Hoa Kỳ, nhưng quân Bắc Việt bị thiệt hại nặng hơn với 940 cán binh bỏ mạng. <br /><br />Mùa Hè 1967, sau khi bị thiệt hại nặng trong một thời gian ngắn (từ cuối tháng 4 đến giữa tháng 5), quân Cộng Sản phải tạm ngưng các hoạt động. Áp lực quân sự quanh vùng Khe Sanh giảm sút khá nhiềụ Ngày 12 tháng 8/1967, Đại Tá ẸẸ Lownds được chỉ định thay thế Đại Tá J.J. Padley trong chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 26 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tại Khe Sanh. Vì tình hình lúc đó đang lắng diệu, hai trong ba tiểu đoàn TQLC của Trung Đoàn 26 Hoa Kỳ được phép rút khỏi căn cứ. Nhưng tháng 12, Tiểu Đoàn 3/26 nhận lệnh tăng cường cho Khe Sanh. Tinh tình báo cho biết hoạt động của các lực lượng Cộng Sản đã bắt đầu gia tăng quanh vùng nàỵ <br /><br />TRẬN CHIẾN KHE SANH TRONG NĂM 1968 <br /><br />Đêm 2 tháng 1/1968, gần hàng rào phòng thủ phía Tây Khe Sanh, một toán Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã phục kích và bắn hạ 5 cán bộ Cộng Sản. Giấy tờ tịch thu cho biết họ là những sĩ quan cao cấp Bắc Việt, trong đó có cả một người giữ chức trung đoàn trưởng. Còn hai người kia là cán bộ cao cấp về ngành truyền tin và hành quân. Tình báo Hoa Kỳ lo ngại một lực lượng hùng hậu của Bắc Việt đã có mặt tại vùng nàỵ Khi ấy, Trung Đoàn 26 TQLC tại Khe Sanh lập tức được lệnh phải bổ sung quân số. <br /><br />Đến ngày 20 tháng 1/1968, một trận đánh dữ dội đã xảy ra trên Đồi 881-Nam (Ghi Chú: Có hai ngọn đồi mang tên "881", một ngọn nằm về hướng Bắc của Khe Sanh, và ngọn kia nằm về hướng Nam. Xem bản đồ). Ngọn đồi này được phòng thủ bởi một cánh quân của Tiểu Đoàn 1/3 TQLC Hoa Kỳ, gồm Bộ Chỉ Huy của Đại Đội M, hai trung đội bảo vệ, và toàn thể lực lượng của Đại Đội K. Trong tài liệu Nam, Vietnam 1965-75, Đại Úy William H. Dabney (đại đội trưởng Đại Đội I) cho biết đại đội của ông chỉ huy có vài khẩu bích kích pháo 81 ly, 3 đại bác 105 ly, và hai súng không-giật 106 lỵ <br /><br />Lúc trời vừa sáng còn dầy đặc sương mù, một toán quân của Đại Đội I lục soát vòng quanh khu vực. Mọi vật trong không gian và thời gian đang lắng đọng yên lành. Nhưng đến trưa khi sương mù tan biến. Nét lặn yên của buổi sáng bị giao động giữ dộị Hai trung đội đi đầu lọt vào ổ phục kích của địch quân. Một rừng đạn đủ loại từ súng cá nhân cho đến vũ khí cộng đồng bay veo véọ Trong vòng chưa đến một phút mà đã có 20 binh sĩ Hoa Kỳ ngã gục. Những người còn lại nằm rạp xuống tránh đạn. Họ vừa bắn trả, vừa gọi máy truyền tin xin hỏa lực pháo binh tiếp cứụ <br /><br />Các căn cứ hỏa lực quanh vùng lập tức đáp lờị Những khẩu đại bác được quay nòng về hướng Đồi 881-Nam rồi ì ầm tác xạ. Một rừng đạn pháo bay đến cày nát chiến trường. Bom Napalm từ phi cơ không-yểm ném xuống cản được đợt xung phong của Cộng quân. Toán Cọp Biển bị thiệt hại nặng. Họ lui về vị trí cũ trên Đồi 881-Nam. <br /><br />Trong khi ấy, hai trung đội Thủy Quân Lục Chiến của Đại Đội M/3/26 (đọc là "Đại Đội M thuộc Tiểu Đoàn 3 của Trung Đoàn 26") được trực thăng vận đến Đồi 881-Nam. Toán quân này chuẩn bị hợp sức với Đại Đội I/3/26 để ngày hôm sau mở cuộc lục soát về hướng Đồi 881-Bắc. Theo tài liệu của Khe Sanh Veterans Home Page, cuộc hành quân này đưa đến một vụ đụng độ ác liệt dưới chân Đồi 881-Bắc. Lúc ấy, nương vào hỏa lực phi pháo và không yểm, Đại Đội I/3/26 của Đại Úy Dabney đã đánh cho một tiểu đoàn Cộng quân tan tành manh giáp. Trong trận này, Hoa Kỳ mất 7 người, Bắc quân mất 103 (Khe Sanh Veterans Home Page, Time Line). <br /><br />Ngày 20 tháng 1/1968, một biến chuyển quan trọng bất ngờ xảy rạ Lúc 2 giờ chiều, một viên trung úy Bắc Việt tên Lã Thanh Tòng thuộc Sư Đoàn 325C đột nhiên ra đầu thú. Trung Úy Tòng cho biết đêm nay Bắc quân sẽ mở cuộc tấn công lên các ngọn Đồi 861 và 881-Bắc. Ngoài ra, người tù binh cũng tiết lộ rằng hai sư đoàn 304 và 325C của Bắc Việt đã vạch sẵn kế hoạch đánh chiếm căn cứ Khe Sanh. <br /><br />Đúng như lời khai của Trung Úy Tòng, lúc 12 giờ 30 rạng ngày 21 tháng 1/1968, Cộng quân dùng đại bác bắn vào Đồi 861. Trước hết, kho chứa đạn của Thủy Quân Lục Chiến ở trên đồi trúng đạn pháo kích rồi nổ tan. Kế đến, lực lượng Cộng Sản gớm 300 cán binh chuẩn bị xung phong lên đồị Nhưng Đại Đội K/3/26 biết trước. Họ gờm súng chờ đợị. Trận đánh kéo dài đến 5 giờ 30 sáng, Cộng quân rút lui để lại 47 xác. Phía bên Đại Đội K/3/26 có một binh sĩ tử trận. <br /><br />Trong khi ấy ở căn cứ Khe Sanh, quân trú phòng luôn chú tâm theo dõi các diễn biến trên Đồi 861. Khi trận đánh kết thúc gần 6 giờ sáng, họ nghe nhiều tiếng "depart" từ xa vọng lạị Bầu trời đột nhiên đổ cơn mưạ Những hạt mưa to bằng sắt thép với đường kính từ 81 đến 130 lỵ <br /><br />Khi quả đạnh đầu tiên lao vào căn cứ, những người lính tại Khe Sanh lập tức xuống hầm. Một số khác co lại trong giao thông hàọ Tay họ ôm nón sắt, và miệng đếm theo tiếng nổ của đạn pháo binh. Trong phút chốc, kho chứa đạn khổng lồ trong căn cứ với 1,500 tấn đã phát nổ tan tành. Phi đạo ở Khe Sanh với chiều dài 3,900 feet (1,188 m) bị cày xới lung tung, bị rút ngắn lại chỉ còn 2,000 feet (609 m). Thế mà ngày hôm đó một vài chiếc vận-tải cơ của Hoa Kỳ cũng xuống phi đạo để mang các kiện hàng cho binh sĩ ở Khe Sanh. <br /><br />Ngày 22 tháng 1/1968, tình hình nguy ngập. Tiểu Đoàn 1 TQLC Hoa Kỳ đến tăng cường Khe Sanh. Đây là một đơn vị thuộc Trung Đoàn 9. Họ đã nổi danh trong trận đánh tại Côn Thiện (Cồn Tiên) gần vùng phi quân sự vào năm 1967 vừa quạ <br /><br />Ngày 26, một lực lượng tăng viện khác được không vận vào Khe Sanh. Đó là Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân của Đại Úy Hoàng Phổ. Đây là một đơn vị bộ chiến già dặn, đầy gan lì và kinh nghiệm của Việt Nam Cộng Hòạ Trách nhiệm của họ là tạo vòng đ ai phòng thủ tại khu vực ở hướng Đông ở căn cứ Khe Sanh. <br /><br />CÁC DIỄN BIẾN CHÁNH YẾU TRONG TRẬN CHIẾN TẠI KHE SANH <br /><br />20 tháng 1 Đụng độ mạnh giữa Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và bộ đội Bắc Việt trên Đồi 881-Nam. Hai bên đều thiệt hại nặng. Trong ngày này, một Trung Úy Bắc Việt ra đầu thú và đã cho biết kế hoạch tấn công của Cộng quân vào căn cứ Khe Sanh. <br /><br />21 tháng 1 Cộng quân pháo kích vào Khe Sanh. Kho đạn trong căn cứ nổ tung, phi đạo bị hư hạị Đồi 861 bị pháo kích, nhưng các binh sĩ Hoa Kỳ trên đồi đẩy lưi cuộc tấn công của bộ đội Bắc Việt. <br /><br />22 tháng 1 Căn cứ Khe Sanh được tăng viện bởi Tiểu Đoàn 1/9 TQLC Hoa Kỳ. <br /><br />26 tháng 1 Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân VNCH của Đại Úy Hoàng Phổ đến Khe Sanh. Đây là lực lượng tăng viện sau cùng trong khoảng thời gian căn cứ bị bao vâỵ <br /><br />30 tháng 1 Cộng Sản mở chiến dịch "Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa" trên toàn lãnh thổ Nam Việt Nam. Nhiều thị xã bị tấn công, trong đó có Huế và Saigon là hai thành phố xảy ra những vụ đụng độ lớn nhất. <br /><br />6 tháng 2 Đêm 6 tháng 1/1968, bộ đội và chiến xa Bắc Việt tấn công Trại Lực Lượng Đặc Biệt ở Làng Vei, cách Khe Sanh 6 miles (10 km) về hướng Tâỵ Ngày hôm sau, Làng Vei thất thủ. <br /><br />9 tháng 2 Một trận kịch chiến xảy ra trên Đồi 64, quân Cộng Sản để lại 134 xác chết. Phía bên Hoa Kỳ có 26 binh sĩ TQLC tử thương. <br /><br />11 tháng 2 Hai vận tải cơ C-130 đáp xuống Khe Sanh. Một chiếc nổ tung vì trúng đạn pháo kích. Chiếc còn lại gấp rút được sửa chữa rồi bay "khập khễnh" về phi trường Đ à Nẵng bình an. <br /><br />21 tháng 2 Bắc Việt tấn công vào vòng đai phòng thủ tại khu vực hướng Đông ở Khe Sanh. Nhưng không chọc thủng được bức tường phòng thủ kiên cố của Biệt Động Quân VNCH. <br /><br />Tháng 2-3 Từ tháng 2 đến cuối tháng 3, cường độ pháo kích của Cộng quân tại Khe Sanh quá ác liệt. Phương pháp tiếp tế duy nhất là móc các kiện hàng vào những cánh dù rồi thả xuống từ các vận tải cơ trên vòm trờị <br /><br />23 tháng 2 Cộng quân bắn 1,300 quả đạn đại bác vào Khe Sanh. Trận địa pháo kéo dài 8 tiếng đồng hồ. Mười (10) quân nhân Hoa Kỳ bị thiệt mạng, 51 người khác bị thương. <br /><br />29 tháng 2 Bộ đội Bắc Việt mở cuộc tấn công ác liệt vào vòng đai phòng thủ ở phía Đông căn cứ, nhưng gặp phải mức kháng cự mãnh liệt của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quâ n. Cả ba đợt xung phong của Cộng quân bị đẩy luị Họ để lại 70 xác chết trên trận địạ <br /><br />1 đến 15 tháng 4 Ngày 1 tháng 4/1968, cuộc hành quân PEGASUS (của quân đội Mỹ) và LAM SƠN 207 (của quân đội VNCH) được tiến hành. Chiến dịch kết thúc vào ngày 15 tháng 4/1968. Căn cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải tỏạ <br /><br />. <br />Tổn Thất: Hoa Kỳ: 199 tử thương, 1,600 bị thương, Việt Nam Cộng Hòa: 34 tử thương, 184 bị thương, Cộng Sản Bắc Việt: 10,000 đến 13,000 tử thương. <br /><br />Lúc ấy, ngoài 6,000 TQLC Hoa Kỳ và một tiểu đoàn thiện chiến Biệt Động Quân Việt Nam, Khe Sanh lại được phòng thủ bởi hỏa lực pháo binh riêng biệt gồm một pháo đội súng cối 106 ly, 3 pháo đội đại bác 105 ly, và một pháo đội đại bác 155 lỵ Về thiết giáp, Khe Sanh có 5 xe tăng loại M-48 và 2 chi đội chiến xa M-50 Ontos với 6 khẩu đại bác 106 ly trên mỗi chiếc. Về hỏa lực yểm trợ quanh vùng, Khe Sanh nằm trong tầm tác xạ của 4 pháo đội đại bác 175 ly từ căn cứ Rock Pile và 3 pháo đội 175 ly từ căn cứ Carroll. <br /><br />Phía bên kia, lực lượng Cộng Sản cũng hùng hậu không kém. Tướng Võ Nguyên Giáp lúc ấy nắm trong tay ít nhất 3 sư đoàn. Ngoài ra, ông còn có thêm một số đơn vị biệt lập hỗ trợ khác. Các đơn vị Cộng Sản được ghi nhận như sau: <br /><br />Sư Đoàn 325C CSBV đóng quân về phía Bắc của Đồi 881 Bắc <br />Sư Đoàn 304 CSBV (xuất phát từ bên Lào) đóng quân về phía Tây Nam của Khe Sanh <br />Một trung đoàn thuộc Sư Đoàn 324 CSBV đang có mặt ở gần vùng phi quân sự, cách Khe Sanh 15 miles (24 km) về hướng Tây Bắc <br />Sư Đoàn 320 CSBV giữ vị trí về phía Bắc của căn cứ hỏ a lực Rock Pile <br />Ngoài ra, Cộng Sản huy động thêm một đơn vị Thiết Giáp với chiến xa T-54 cùng hai trung đoàn 68 và 164 Pháo Binh <br />Ngày 30 tháng 1/1968, Cộng Sản phát động chiến dịch Tổng Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa (thường được gọi là cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân) trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Tại những thành phố lớn, các đơn vị Việt Cộng cố các trận đánh lớn để gây tiếng vang. Nhưng gần Khe Sanh, tình hình tương đối yên tĩnh. Nhưng sự yên tĩnh chỉ kéo dài được 6 ngàỵ <br /><br />Hôm 5 tháng 2/1968, tiếng súng khởi sự nổ trên đồi 861Ạ Một tiểu đoàn Việt Cộng (thuộc Sư Đoàn 325) mở cuộc tấn công. Địch quân chiếm một phần tại vòng đai phía Bắc trong khu vực trách nhiệm của Đại Đội E/2/26. Nhưng sau đó, Bắc quân bị đánh bật trở ra trong một cuộ c phản công quyết liệt của các binh sĩ Cọp Biển. Tổng kết trận đánh có 7 quân nhân Mỹ tử trận, phía bên kia Cộng quân thiệt mất 109 cán binh (Khe Sanh Veterans Home Page: Time Line). <br /><br />Ngày 6 tháng 2/1968, quân Cộng Sản đánh vào trại Lực Lượng Đặc Biệt ở Làng Vei, nằm gần Khe Sanh chừng 6 miles (10 km) về hướng Tâỵ Quân Bắc Việt có cả chiến xa PT-76. Và đó cũng là lần đầu tiên Thiết Giáp Bắc Việt trực tiếp lâm chiến tại miền Nam . Do Nga Sô chế tạo và cung cấp cho Cộng Sản miền Bắc, các xe PT-76 chạy trên xích sắt, được trang bị nòng súng 76 ly, và có khả năng lội nước. Tuy vỏ bọc bên ngoài tương đối mỏng, nhưng độ cứng của thép cũng đủ để ngăn chận các loại đạn trung liên từ 7.62 ly trở xuốn g. <br /><br />Trong trận Làng Vei, 11 chiến xa PT-76 của Cộng quân dẫn đầu. Theo sau là một tiểu đoàn bộ đội yểm trợ. Đây là một đơn vị thuộc Trung Đoàn 66 dưới quyền điều động của Sư Đoàn 304. Trận đánh tại Làng Vei kéo dài chỉ một ngày. Chín (9) trong số 11 chiếc PT-76 bị tiêu diệt, nhưng quân trú phòng không ngăn nổi trận biển người của đối phương. Chết trong trận này gồm hơn 200 binh sĩ Dân Sự Chiến Đấu Việt Nam cùng 10 trong số 24 sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ. <br /><br />Ngày 9 tháng 2/1968, một tiểu đoàn Bắc Việt tấn công (tiểu đoàn này thuộc Trung Đoàn 101D của Sư Đoàn 325) Đồi 64 do Đại Đội A/1/9 Cọp Biển trấn giữ. Các vị trí phòng thủ trên đồi bị Bắc quân tràn ngập. Trong tình huống nguy cập, các binh sĩ TQLC liên lạc xin phi pháo yểm trợ. Không chút chậm trễ, các khẩu đại bác quanh vùng đều nhắm hướng Đồi 64 và tác xạ. Khi ấy, một lực lượng TQLC khác được lệnh phải đến tiếp viện Đồi 64. Trong 3 tiếng đồng hồ máu lửa này, có 150 bộ đội Bắc Việt chết và 26 binh sĩ Hoa Kỳ tử thương. <br /><br />Sau trận đánh ở Đồi 64, quân Bắc Việt tạm ngưng các hoạt động để bổ sung quân số. Chiến trường lắng dịu trong hai tuần. Đến 21 tháng 2/1968, căn cứ Khe Sanh lại bị tấn công. Lần này, một đại đội địch quân gây áp lực tại phòng tuyến của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân. Nhưng các binh sĩ Mũ Nâu VNCH đã vững vàng cố thủ. Trận này kết thúc mau lẹ. Đợt tấn công của đối phương đã bị Biệt Động Quân bẻ gảỵ <br /><br />Hai ngày sau, 23 tháng 2/1968, Bắc quân tập trung pháo binh để phục hận. Một nghìn ba trăm (1,300) quả đạn đủ loại đã được bắn vào Khe Sanh (Tom Carhart: Battles And Campaigns In Vietnam, tr.129). Trận địa pháo 8 tiếng đồng hồ này đã làm nổ tung một kho tồn trữ đạn trong căn cứ, gây thiệt mạng cho 10 quân nhân Hoa Kỳ và 51 người khác bị thương. <br /><br />Đêm 29 tháng 2, mặt trận vây-hãm Khe Sanh chợt bùng nổ với một trận bộ chiến sau cùng. Chín giờ 30 tối, một tiểu đoàn Cộng quân (thuộc Sư Đoàn 304 CSBV) đánh thẳng vào mặt Đông của Khe Sanh. Đây là khu vực trách nhiệm của các binh sĩ Biệt Động Quân VNCH. <br /><br />Nhưng sau một màn pháo kích dọn đường, và sau ba lần trận biển-người xung phong, tiểu đoàn Bắc Việt cũng không phá được phòng tuyến thép của lính "rằn rị" Đêm hôm đó, các binh sĩ Biệt Động Quân bình tĩnh chiến đấụ Họ đợi đối phương xung phong đến thật gần rồi mới kha i hỏạ <br /><br />Lúc đó trong giao thông hào khói lửa mịt mù. Nón sắt, áo giáp, cài kỹ lưỡng. Súng trường M-16 được gắn lưỡi lê (bayonet). Lựu đạn đeo ở bụng, trước ngực, hoặc choàng vaị Băng đạn sát bên người, ở hông và đầy trong túị Khi Bắc quân tấn công, tiểu đoàn Biệt Động Quân chống trã mãnh liệt. Kinh nghiệm chiến đấu và sự gan dạ của họ chính là một trong các yếu tố quan trọng giúp đẩy lui cả 3 lần xung phong của Bắc quân. Ngày hôm sau, một toán Biệt Động Quân vượt hàng rào kiểm điểm tình hình. Họ đếm được 70 xác chết địch quân trên trận địạ <br /><br />Trong tác phẩm Battles And Campaigns In Vietnam, Tom Carhart có ghi lại một cách ngắn gọn về trận đánh của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân như sau: "Rạng sáng ngày 29 tháng 2/1968, mũi tấn công duy nhất được nhắm vào vòng đai trách nhiệm của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân. Khi Cộng quân xung phong đến gần hàng rào, họ bị lính Mũ Nâu chào đón họ bằng một rừng Claymore (mìn chống cá nhân), lựu đạn và súng cá nhân. Địch quân chẳng qua được hàng rào kẽm gai chằng chịt bên ngoàị Bảy mươi (70) xác chết của họ vì vậy đã được xem như như một công cuộc bại thảm nặng nề." <br /><br />Trong các tài liệu Anh ngữ nói về trận chiến tại Khe Sanh, hầu như các tác giả và ký giả Hoa Kỳ chỉ ghi nhận mức chịu đựng bền bỉ của người lính Thủy Quân Lục Chiến. Nhưng ít ai biết đến hoặc nhắc nhở gì về sứ mạng phòng thủ của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân. May mắn thay, công trạng của họ đã được Trung Tướng Phillip Davison nhắc đến trong tài liệu Vietnam At War, The History 1946-75": ".. .[Tướng] Giáp tưởng tấn công vào tuyến phòng thủ của Biệt Động Quân VNCH sẽ dễ dàng hơn là đánh vào những nơi có Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ trấn giữ, nhưng đây không thể gọi là dễ dàng được bởi vì đơn vị Biệt Động Quân VNCH này chính là một đơn vị thiện chiến rất giỏị" <br /><br />Trận tấn công vào đêm 29 tháng 2 (cho đến rạng ngày 1 tháng 3) là trận tấn công cuối cùng của quân Bắc Việt vào căn cứ. Ngày 1 tháng 4/1968, chiến dịch giải tỏa Khe Sanh bắt đầụ Cuộc hành quân mệnh danh "PEGASUS" (của Mỹ) và Lam Sơn 207 (của Việt Nam Cộng Hòa) được khởi động với sự tham dự của nhiều đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ và Nhảy Dù Nam Việt Nam . Trục tiến quân giải tỏa Khe Sanh được thiết lập dọc theo Quốc Lộ 9. <br /><br />Vài ngày sau, 8 tháng 4, căn cứ Khe Sanh hoàn toàn được giải tỏạ Giấc mộng tạo dựng một Điện Biên Phủ thứ hai của Võ Nguyên Giáp kể như không thành. Các binh đoàn dưới quyền chỉ huy của ông bị mất từ 10 đến 13,000 bộ độị Nhiều đơn vị bị xóa tên dưới hỏa lực hùng hậu của pháo binh và không yểm. <br /><br />Sau này, các sách vở về chiến tranh Việt Nam đều có nhiều nhận xét khác nhau về chiến thuật của đôi bên. Một lập luận cho rằng tướng Giáp muốn dụ Hoa Kỳ dồn quân vào Khe Sanh để quân Cộng Sản có thể rãnh tay tấn công các vùng khác. Một lập luận khác lại cho rằng ông Giáp bao vây Khe Sanh với lý do muốn tạo dựng một chiến thắng như Điện Biên để buộc Hoa K ỳ phải nhượng bộ rồi đầu hàng. Trong khi đó, một số tài liệu chiến sử Hoa Kỳ lại nghĩ rằng tướng Westmoreland đã "tương kế tựu kế." Ông mong Cộng quân sẽ tập trung nhiều binh đoàn gần Khe Sanh để ông có thể dùng hỏa lực pháo binh và phi cơ tiêu diệt. <br /><br />Nhưng lịch sử đã không theo vết xe lăn của Điện Biên Phủ 14 năm về trước. Năm 1968, Hoa Kỳ có đầy đủ phương tiện để phòng thủ, yểm trợ, và tiếp tế Khe Sanh trong 77 ngày, hoặc lâu dài hơn nếu cần thiết. Phía bên kia, Cộng quân đã không chiếm nổi Khe Sanh, mà lại còn bị thiệt mất từ 10 đến 13,000 bộ độị Đó là chưa kể thiệt hại trên các phương diện khác như quân cụ, chiến thuật, cùng hàng ngàn thương binh.<br /></span>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-43645089109878410492009-06-28T00:17:00.000-07:002009-06-28T00:18:02.702-07:00Hòa Bình Vang Tiếng Súng<span style="font-weight:bold;">I. MẶT TRẬN BẮC HẢI VÂN<br /><br />Về mặt quân sự, lãnh thỗ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) được chia thành bốn vùng chiến thuật mang số từ 1 đến 4, đến năm 1971 thì được đổi tên lại là quân khu. Quân Khu 1 là khu vực cực Bắc của VNCH, tiếp giáp với Bắc Việt nên là khu vực thường xuyên bị áp lực nặng nề nhất dù là khu vực nhỏ nhất trong 4 quân khu về mặt lãnh thổ. lãnh thổ của Quân Khu 1 bao gồm 5 tỉnh:Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín và Quảng Ngải chạy dài từ Bắc xuống Nam với hai thành phố quan trọng là Huế và Đà Nẵng. Đà Nẵng trong tỉnh Quảng Nam là thành phố lớn thứ nhì của VNCH, sau thủ đô Saigon và là một trung tâm chính trị, kinh tế quan trọng nhất ở phía Bắc Saigon.<br /><br />Được thiên nhiên ưu đải với một hải cảng tốt và bờ biển dài và đẹp, Đà Nẵng được chọn là nơi những người lính bộ chiến đầu tiên của Quân Đội Mỹ đặt chân lên đất Việt Nam vào năm 1965. Mỹ đã xây dựng Đà Nẵng thành một căn cứ quân sự lớn gồm có phi trường/căn cứ không quân, hải cảng/căn cứ hải quân và các trung tâm tiếp vận/yểm trợ lớn và hiện đại. Phía Việt Nam Cộng Hòa cũng có các căn cứ không/hải quân lớn ở đây cùng Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1, chỉ huy toàn bộ các đơn vị cơ hữu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trên lãnh thổ Quân Khu 1. Huế trong tỉnh Thừa Thiên là cố đô của nước Việt Nam dưới triều đại phong kiến sau cùng của nhà Nguyễn với những di tích lịch sử và văn hóa quan trọng như các cung điện trong Hoàng Thành/Thành Nội và các ngôi chùa nổi tiếng trong thành phố và các lăng tẩm vua ở khu vực ngoại ô thành phố. Không có giá trị quan trọng về quân sự và kinh tế như Đà Nẵng, Huế lại có một giá trị vô cùng quan trọng về mặt chính trị, lịch sử và tâm lý cho chính phủ VNCH. Do đó Huế được coi trọng và phải bảo vệ đến cùng.<br /><br /><br />Hình chụp sau cuộc chiến trên một khúc đường đèo Hải Vân<br />(HÌNH ẢNH: Multipurpose).<br /><br /><br />Về phía Cộng Sản Bắc Việt (CSBV), hai tỉnh địa-đầu Quảng Trị và Thừa Thiên trực thuộc Quân Khu Trị Thiên, bí danh "B-4," và đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của Quân Ủy Trung Ương cùng Bộ Tổng Tư Lệnh ở Hà Nội. Hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Nam được ngăn cách bởi rặng núi Hải Vân đâm thẳng ra biển Nam Hải tại đèo Hải Vân đẹp nổi tiếng nhưng cũng đầy nguy hiểm. Sự phân chia về địa lý và thời tiết này đã tạo ra hai khu vực/mặt trận quân sự cách biệt ở Quân Khu 1 là Bắc Hải Vân --gồm hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên-- và Nam Hải Vân (Quảng Nam, Quảng Tín và Quảng Ngải). Bài viết sẽ tập trung vào những hoạt động quân sự quan trọng trong khu vực Bắc Hải Vân từ đầu năm 1971 khi Quân Lực VNCH mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 sang Hạ Lào để tiêu diệt hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh cho đến khi thành phố Huế và hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên mất vào tay Cộng Sản trong cuộc tổng tấn công kết thúc cuộc chiến vào mùa xuân năm 1975. Phần đầu tiên sẽ nói về năm 1973, năm đầu tiên sau hiệp định Paris về ngưng bắn và tái lập hòa bình ở Miền Nam Việt Nam, cho đến khi chiến tranh kết thúc vào tháng 4 năm 1975.<br /><br />TÌNH HÌNH QUÂN SỰ CUỐI NĂM 1972-TRƯỚC NGÀY NGỪNG BẮN<br /><br />Vào tháng 12 năm 1972 những đàm phán giửa Hoa Kỳ và Bắc Việt tại hội nghị Paris về một giải pháp ngừng bắn và tái lập hòa bình ở Miền Nam Việt Nam đang bước vào giai đoạn căng thẳng quyết định thì trên chiến trường Miền Nam Việt Nam những nổ lực tổng tấn công xâm-lăng của Bắc Việt đã thất bại nặng nề, nhưng phía Quân Lực VNCH cũng thiệt hại không nhỏ. Mực độ chiến trận đã giảm nhiều nhưng vẫn còn những cuộc hành quân lấn chiếm đất đai và dân cư trước khi có cuộc ngưng bắn. Quân đội Bắc Việt mở màn cuộc tổng tấn công Xuân-Hè 1972 trong chiến dịch Nguyễn Huệ ở Quảng Trị thuộc lãnh thổ Quân Khu 1 với 3 sư đoàn chủ lực cùng nhiều trung đoàn bộ đội độc lập, thiết giáp, pháo binh, phòng không và đặc công Việt Cộng tấn công vào thị xã Quảng Trị và thành phố Huế. Đến giai đoạn cuối của chiến dịch này, vào tháng 12 năm 1972, trên lãnh thổ Quân Khu 1, quân đội Bắc Việt có 8 sư đoàn cùng với 5 trung đoàn bộ binh độc lập, 3 trung đoàn thiết giáp, 6 hay 7 trung đoàn pháo binh, ít nhất 4 trung đoàn đặc công của quân chủ lực, yểm trợ bởi 33 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh, phòng không, trinh sát, đặc công thuộc quân địa phương.<br /><br />Đối phó với một lực lượng hùng hậu dù đã bị tổn thất hết sức nặng nề của Bắc Quân, Quân Lực VNCH có 5 sư đoàn (ba sư đoàn bộ binh cơ hữu của Quân Đoàn 1, tăng cường với 2 sư đoàn tổng trừ bị cơ động chiến lược của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH) cùng với 1 liên đoàn Biệt Ðộng Quân (BĐQ) trừ bị chiến thuật cho quân đoàn và các tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân Biên Phòng và lực lượng phòng vệ lãnh thổ Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân. Theo tổ chức của quân đội Bắc Việt, các hoạt động quân sự phía Bắc đèo Hải Vân do Quân Khu Trị Thiên (Mặt Trận B-4) trông coi từ đèo Hải Vân đến khu vực thị xã Quảng Trị. Phía Bắc thị xã Quảng Trị ra đến vùng Phi Quân Sự và chạy dọc theo Quốc Lộ 9 đến biên giới Lào thuộc mặt trận B-5 trực thuộc Quân Khu 4 của Cộng Sản ở phía Bắc vùng Phi Quân Sự.<br /><br />BẮC HẢI VÂN, XUÂN 1973<br /><br />Từ tháng 11 năm 1972, quân đội Việt Nam Cộng Hòa dùng 2 lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) đánh vào khu vực tỉnh lộ 560 chạy song song bờ biển Nam Hải lên đến Cửa Việt nhưng gặp sự kháng cự mạnh mẽ của Bắc quân và mùa mưa khởi đầu vào tháng 12 nên không chiếm được mục tiêu quan trọng là Cửa Việt. Trải dài từ bờ biển Nam Hải dọc theo sông Thạch Hãn vào tận trong khu vực rừng núi phía Tây của Quốc Lộ 1 là các đơn vị của 4 sư đoàn Bắc Việt (304, 312, 320B, 325) cùng 2 trung đoàn độc lập của mặt trận B-5. Sư Đoàn 308 Bắc Việt sau tổn thất nặng nề đã trở về Miền Bắc để phục hồi và trở về vị trí tổng trừ bị chiến lược. Bắc Quân bố trí hai trung đoàn ở khu vực dọc theo bờ biển Nam Hải (Trung Đoàn 101 của Sư Ðoàn 325 và Trung Đoàn 48B của Sư Ðoàn 320B).<br /><br />Giữa khu vực này và thị xã Quảng Trị là ba trung đoàn khác (Trung Đoàn 27 và 31 độc lập của B-5 và Trung Đoàn 18 của Sư Ðoàn 325). Và lực lượng này được yểm trợ bởi Trung Đoàn 164 Pháo Binh. Thị xã Quảng Trị được quân đội Việt Nam Cộng Hòa chiếm lại ngày 16 tháng 09/1972 sau một chiến dịch hành quân ác liệt. Sau đó thị xã này được trấn giữ bởi một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Ở hướng Tây và Tây-Nam thị xã Quảng Trị, về hướng tỉnh lộ 556 do sư đoàn Nhảy Dù VNCH đảm trách. Lực lượng Nhảy Dù đã lấy lại các căn cứ Anne và Barbara vào tháng 12 năm 1972. Đối diện với Nhảy Dù là các đơn vị Bắc Việt sau đây:<br /><br />Trung Đoàn 95 của Sư Ðoàn 325, Trung Đoàn 165 và 209 của Sư Ðoàn 312 và Trung Đoàn 66 của Sư Ðoàn 304. Bảo vệ cố đô Huế và Quốc Lộ 1 ở phía Tây, Sư Đoàn 1 Bộ Binh (BB) dàn quân từ sông Bồ kéo dài qua khu vực Phú Bài, Phú Lộc xuống đến Lăng Cô và chân đèo Hải Vân. Trung Đoàn 3 đóng ở căn cứ T-Bone, bảo vệ tuyến sông Bồ.<br /><br />Trung Đoàn 1 đóng ở các căn cứ Veghel và Bastogne, bảo vệ Huế ở hướng tỉnh lộ 547 phía Tây.<br />Trung Đoàn 51 đóng ở Phú Bài, bảo vệ an ninh cho Quốc Lộ cho đến chân đèo Hải Vân.<br />Trung Đoàn 54 đóng quân trên các ngọn đồi phía Tây và Tây-Nam khu vực Phú Bài-Phú Lộc. Đối diện với Sư Ðoàn 1 Bộ Binh của Việt Nam Cộng Hòa là Sư Ðoàn 324B CSBV với 3 trung đoàn (29, 803, và 812) cùng 2 trung đoàn độc lập (5 và 6) của Mặt Trận B-4. Để tiện việc chỉ huy các lực lượng quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở khu vực Bắc Hải Vân, Trung Tướng Ngô Quan Trưởng cho thành lập bộ chỉ huy tiền phương Quân Đoàn 1 ở Huế, do Trung Tướng Lâm Quang Thi, tư Lệnh phó Quân Ðoàn 1 chỉ huy.<br /><br /><br />Phi Trường Phú Bài (HÌNH ẢNH: VNCTLS sưu tầm)<br /><br />Về phía Bắc Việt, trước ngày ký kết hiệp định được ít ngày cũng có những thay đổi quan trọng ở cấp chỉ huy. Thiếu Tướng Cộng Sản Lê Trọng Tấn làm tư lệnh Quân Khu Trị Thiên thay Trần Quí Hai, Trung Tướng Song Hào làm chính ủy. Các Đại Tá Cao Văn Khánh, Doãn Tuế và Hoàng Văn Thái vẩn giữ chức phó tư lệnh trong khi các Đại Tá Lê Tự Đồng và Hoàng Minh Thi là phó chính ủy. Các đơn vị Bắc Việt đều bị thiệt hại nặng, chỉ còn 20 đến 30 phần trăm quân số, chưa kịp bổ sung. Khi hiệp định ngừng bắn có hiệu lực thì Bắc Quân có Sư Đoàn 312 ở hướng Tây đang giằng co với Sư Đoàn Nhảy Dù ở khu vực Ðộng Ông Do Ở cánh Đông ra hướng biển Nam Hải, Bắc Việt bố trí các sư đoàn 304, 320B, 325 và Trung Đoàn 27 độc lập của Mặt Trận B-4.<br /><br />TÌNH HÌNH SÁU THÁNG ÐẦU NĂM 1973 Ở QUÂN KHU 1<br /><br />Khi hiệp định ngừng bắn và tái lập hòa bình ở Miền Nam Việt Nam được ký kết tại Paris vào cuối tháng Giêng năm 1973 thì trên phần đất Trị-Thiên, bộ đội Bắc Việt đã chiếm được khu vực phía Bắc tỉnh Quảng Trị kéo dài từ vùng Phi Quân Sự xuống đến sông Thạch Hãn cũng như khu vực rừng núi phía Tây từ dãy núi Trường Sơn vào tận biên giới Việt-Lào. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa kiểm soát hoàn toàn khu vực đồng bằng nhỏ hẹp nhưng trù phú, đông dân chạy dài từ sông Thạch Hãn đến Lăng Cô ở chân đèo Hải Vân. Khu vực này bao gồm 13 quận (3 thuộc tỉnh Quảng Trị và 10 thuộc tỉnh Thừa Thiên) với 960 ngàn dân (trong đó 202 ngàn dân ở tỉnh Quảng Trị).<br /><br />Bắc Việt đã chuẩn bị cho Sư Đoàn 320B tấn công vào khu vực Chợ Sãi để mở rộng vùng kiểm soát. Tuy nhiên khi nhận được tin tình báo cho biết quân đội Việt Nam Cộng Hòa sắp mở một cuộc hành quân tái chiếm khu vực Cửa Việt thì Mặt Trận B-4 liền hủy bỏ cuộc hành quân vào Chợ Sãi để chuẩn bị đối phó. TRẬN ÐÁNH CỬA VIỆT Sau khi tái chiếm lại thị xã Quảng Trị và Cổ Thành, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lần lượt sử dụng Tiểu Đoàn 8, 9 và 4 TQLC đánh vào khu vực tỉnh lộ 560 chạy song song bờ biển Nam Hải lên đến Cửa Việt nhưng gặp sự kháng cự mạnh mẽ của Bắc quân dưới sự yểm trợ dữ dội của các giàn pháo binh 130 ly và mùa mưa khởi đầu vào tháng 12 nên không chiếm được mục tiêu quan trọng là Cửa Việt.<br /><br />Trong một nỗ lực cuối cùng để chiếm mục tiêu chiến lược quan trọng là Cửa Việt, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến thành lập một lực lượng đặc nhiệm mang tên Tango. Lực lượng này do Đại Tá Nguyễn Thành Trí, tư lệnh phó sư đoàn, trực tiếp chỉ huy gồm có Tiểu Đoàn 2 và 4 TQLC, tăng cường một đại đội của Tiểu Đoàn 5 TQLC và 3 đại đội của Tiểu Đoàn 9 TQLC, Thiết Đoàn 20 Chiến Xa, Thiết Đoàn 17 và 18 Kỵ Binh và được ba tiểu đoàn pháo binh TQLC cùng pháo hạm của Hạm Đội 7 Mỹ yểm trợ đã đánh vào khu vực Long Quang, Bồ Xuyên và tiến dọc theo bờ biển về hướng Thanh Hội, Gia Đẳng, Cửa Việt. Mục tiêu chính của Việt Nam Cộng Hòa là tái chiếm lại căn cứ Hải Quân ở cửa sông Miếu Giang đổ ra biển Nam Hải, cách tuyến đầu của Thủy Quân Lục Chiến khoảng 12 km và cắm cờ VNCH ngay trước giờ ngưng bắn. Khác với chiến dịch tái chiếm tỉnh Quảng Trị và đặc biệt là Thành Cổ Quảng Trị đẫm máu và lâu dài, cuộc hành quân này được thiết kế áp dụng lối đánh thần tốc để chiếm mục tiêu trong vòng 25 giờ đồng hồ.<br /><br />Khi ấy lực lượng Cộng Sản Bắc Việt ở cánh Đông gồm có Trung Đoàn 48 và 64 của Sư Đoàn 320B ở khu vực Long Quang, An Lộng, Bồ Liên,Văn Hoa, Trung Đoàn 101 của Sư Đoàn 325 ở khu vực Gia Đẳng. Lực lượng trừ bị ở phía sau gồm Trung Đoàn 88 và 102 của Sư Đoàn 308 và Trung Đoàn 52 của Sư Đoàn 320B. Bộ chỉ huy Mặt Trận B-4 cho tăng cường một đại đội chiến xa T-54, một tiểu đoàn pháo binh 85 ly chống chiến xa và một tiểu đoàn hỏa tiển chống chiến xa AT-3 Sagger. Khoảng 7 giờ sáng ngày 27 tháng 1, lúc thủy triều xuống, gió bấc mưa phùn và ồn ào sóng biển, cùng với sự yểm trợ hữu hiệu của pháo binh gồm 10 ngàn quả đạn, thêm 9 phi vụ B-52 và 5 ngàn đạn hải pháo của Hạm Đội 7 Hoa Kỳ từ ngoài khơi bắn vào, quân đội Việt Nam Cộng Hòa tiến quân dọc theo bờ biển về hướng Cửa Việt.<br /><br />Các chốt phòng thủ của Bắc Việt lần lượt bị nhổ, nhưng sức kháng cự của họ cũng còn mạnh. Đến khoảng 8 giờ tối ngày này thì quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã tiến được nửa đường, và một số đơn vị đã bị tổn thất khá nặng, khoảng trên dưới 20 chiến xa và thiết vận xa của bị hư hại. Đại Tá Trí cho hai lực lượng Cọp Biển và Thiết Giáp liên kết đánh nhanh theo hướng sát biển mà không cần yểm trợ bảo vệ ở cánh trái từ hướng đất liền. Do tập trung vào tuyến phòng thủ chánh phía trong đất liền, Bắc quân bị bất ngờ, vì đúng 7 giờ 58 phút sáng ngày 28 tháng 1, hai phút trước khi hiệp định ngừng bắn có hiệu lực thì mũi nhọn đột kích với khoảng 300 lính Cọp Biển được 3 chiến xa M-48 yểm trợ do Thiếu Tá Phạm Văn Tiền, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 4 TQLC, chỉ huy đã chọc thủng tuyến phòng ngự phía Đông và cắm cờ ngay cảng Cửa Việt, bắt loa kêu gọi ngừng bắn.<br /><br />Các cấp chỉ huy Bắc Việt ở mặt trận (thuộc Sư Đoàn 320B CSBV) đã tỏ ra lúng túng, đánh thì sợ vi phạm hiệp định, không đánh thì bị mất đất, nên phải điện lên cấp trên xin chỉ thị giải quyết . Do vị trí quan trọng chiến lược trong việc chi viện cho chiến trường Trị Thiên của cảng Cửa Việt và Đông Hà, đã xảy ra những ngày căng thẳng ở bộ chỉ huy tối cao Cộng Sản ở Hà Nội khiến các cấp lãnh đạo không "yên tâm ăn Tết." Quân Ủy Trung Ương sau cùng phải cử Thiếu Tướng Lê Trọng Tấn, tổng tham mưu phó vào tận Quảng Trị ra lệnh cho Đại Tá Cao Văn Khánh, phó tư lệnh Mặt Trận Quảng Trị, xuống tận Cửa Việt với chỉ thị phải tấn công để lấy lại ngay. Đêm 28 tháng 1 các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến tập trung ở ba cứ điểm phòng thủ về phía Nam cảng Cửa Việt, Đông Bắc của Thanh Hội và Nam của Long Quảng. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa được lệnh chuẩn bị nhận tiếp tế, tải thương và canh phòng cẩn mật để chờ cho Ủy Ban Kiểm Soát Ngưng Bắn đến ghi nhận. Suốt ba đêm từ 28 đến 30 tháng 1, bộ chỉ huy quân Bắc Việt do Cao Văn Khánh chỉ huy điều động lực lượng và hoàn chỉnh đội hình để tấn công cảng Cửa Việt. Sáng ngày 31 tháng 1 Bắc quân dùng Trung Đoàn 48 của Sư Đoàn 320B và Trung Đoàn 101 của Sư Đoàn 325, tăng cường thêm Trung Đoàn 24 của Sư Đoàn 304 được chiến xa và pháo binh yểm trợ tấn công chiếm lại Cửa Việt. Cao Văn Khánh tổ chức ba hướng tấn công:<br /><br /> 1. Hướng chận đầu do Trung Đoàn 48 của Sư Đoàn 320B và một bộ phận Hải Quân CSBV đang tiếp thu Cửa Việt bảo vệ không cho các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến VNCH mở rộng khu vực chiếm đóng.<br /> 2. Hướng khóa đuôi do Trung Đoàn 64 của Sư Đoàn 320B tăng cường 2 tiểu đoàn (một từ Trung Đoàn 24 và một từ Trung Đoàn 101) bố trí ở Vĩnh Hòa, vừa đánh các đơn vị Cọp Biển-Thiết Kỵ từ Thanh Hội lên tăng cường, vứa chận các đơn vị Cọp Biển-Thiết Kỵ từ Cửa Việt rút về.<br /> 3. Hướng tấn công do Trung Đoàn 101 của Sư Đoàn 325, Trung Đoàn 24 (thiếu 1 tiểu đoàn) của Sư Đoàn 304, tăng cường hai tiểu đoàn của mặt trận B-5 tấn công vào các cụm phòng thủ của liên quân Thủy Quân Lục Chiến-Thiết Giáp ở khu vực Cửa Việt. <br /><br />Sau 30 phút bắn pháo mở màn từ 6 giờ 30 đến 7 giờ sáng, Bắc quân ào ạt tấn công và đến trưa ngày này đã khôi phục lại vị trí phòng ngự khu vực Cửa Việt. Bị bao vây cả ba mặt trừ phía sau lưng trông ra biển, thiếu nước uống, đạn dược cũng như cần tải thương, không dám sử dụng hỏa lực yểm trợ của phi pháo do sợ vi phạm hiệp định, các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Giáp phải mở đường máu rút trở về vị trí xuất phát với đơn vị Thiết Giáp bị thiệt hại trên 2/3 số chiến xa tham chiến. Thường Vụ Quân Ủy Trung Ương thở phào nhẹ nhõm và gởi thơ khen ngợi việc chiếm lại cảng Cửa Việt, chấm dứt chiến dịch tấn công chiến lược 1972 ở hướng Quảng Trị. Phía Việt Nam Cộng Hòa, dù Lực Lượng Đặc Nhiệm Tango đã linh động khôn ngoan trong việc đột kích theo hướng sát bờ biển để cắm cờ trên căn cứ hải quân tại cửa biển chiến lược Cửa Việt ngay trước giờ ngưng bắn khiến Sư Đoàn 320B không kịp phản công, do sự thiếu sót trong công tác yểm trợ cũng như phán đoán sai lầm về thời gian có mặt lập tức của Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Ngưng Bắn khiến Bắc quân có nhiều thời gian chuẩn bị phản công.<br /><br /># Tuy nhiên phía Việt Nam Cộng Hòa sau đó đã có cơ hội phục hận ở Sa Huỳnh. Với thành tích trong trận đánh Cửa Việt, các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa tham chiến sau đây đã được tuyên dương công trạng với U.S. Valorous Unit Award của Hoa Kỳ: Bộ Chỉ Huy Hành Quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến<br /># Lực Lượng Đặc Nhiệm Tango (Sư Đoàn TQLC và Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh)<br /># Tiểu Đoàn 2,4 và 9 Thủy Quân Lục Chiến<br /># Bộ chỉ huy Thiết Đoàn 20 Chiến Xa, Chi Đoàn 1/20 và 3/20 Chiến Xa<br /># Chi Đoàn 1/17 và 2/17 Kỵ Binh<br /># Chi Đoàn 2/18 Kỵ Binh<br />Sau khi hiệp định ngừng bắn có hiệu lực được ít ngày, Bắc Việt cho sát nhập hai chiến trường B-4 và B-5 lại thành một, gọi là Quân Khu Trị-Thiên, bí danh B-4. Thiếu Tướng Cộng Sản Cao Văn Khánh trở thành tư lệnh Mặt Trận B-4, Đại Tá Lê Tự Đồng là chính ủy trong khi Đại Tá Hoàng Văn Thái là tư Lệnh phó và Đại Tá Nguyễn Hữu An là tư Lệnh phó kiêm tham mưu trưởng. Lực lượng chủ lực của Bắc Quân gồm Sư Đoàn 304, 324B và 325 bố trí ở khu vực Bắc Quảng Trị cùng với các trung đoàn độc lập 4, 5, 6, và 271 của Quân Khu Trị-Thiên bố trí ở phía Tây Huế ở hướng Đường 12 và các lực lượng yểm trợ như Lữ Đoàn 164 Pháo Binh, Lữ Đoàn 219 Công Binh, Lữ Đoàn 203 Thiết Giáp.<br /><br />Các sư đoàn tổng trừ bị 308, 312, và 320B được đưa vào từ Lào và Miền Bắc để tham gia cuộc tổng tấn công đã được rút về Miền Bắc để dưỡng quân và hồi phục sau những tổn thất nặng nề. Phía quân đội Việt Nam Cộng Hòa có Sư Đoàn 1 BB và hai sư đoàn tổng trừ bị cơ động chiến lược Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến tăng viện từ Bộ Tổng Tham Mưu /Quân Lực VNCH cùng các đơn vị cơ hữu của Quân Ðoàn 1 như Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân, v.v. Phía Bắc Việt, chủ yếu là hoạt động cũng cố và bảo vệ các vùng đất đã chiếm được trong chiến dịch Nguyễn Huệ vào mùa hè 1972, đặc biệt là thị trấn Đông Hà trở thành một trung tâm tiếp vận lớn cùng với cảng Cửa Việt.<br /><br />Bắc Việt cũng bắt đầu xây dựng con đường chiến lược mới Đông Trường Sơn chạy dài từ khu vực Khe Sanh xuống khu vực Tân Cảnh-Dakto nối vào Quốc Lộ 14 xuống tận Lộc Ninh cũng như những nhánh đường mòn tiếp-vận chạy dài từ khu vực rừng núi phía Tây các tỉnh Thừa Thiên và Quảng Nam ra hướng đồng bằng duyên hải để cắt đứt Quốc Lộ 1 và cô lập Huế và Đà Nẵng trong nổ lực tổng tấn công sắp đến. Phía quân đội Việt Nam Cộng Hòa chủ yếu là bảo vệ các vị trí quân sự quan trọng, khu vực đồng bằng duyên hải và các trung tâm đô thị, các khu vực tái định cư cho đồng bào Quảng Trị chạy nạn chiến tranh, và duy trì lưu thông liên lạc trên Quốc Lộ 1 huyết mạch chạy xuyên qua Quân Khu 1 dọc theo Biển Nam Hải.<br /><br />NHẬN ÐỊNH TÌNH HÌNH SÁU THÁNG CUỐI NĂM 1973 Ở QUÂN KHU 1<br /><br />Trong sáu tháng cuối năm 1973, Bắc Việt tập trung nổ lực tái xây dựng lực lượng chiến đấu và mở rộng đường vận chuyển cùng các kho tiếp vận. Mức độ chiến trận thấp do các đường vận chuyển và kho tiếp vận của Bắc Quân ở phía Tây không bị quân đội Việt Nam Cộng Hòa quấy rối. Quân Cộng Sản tiếp tục xây dựng các công cuộc tiếp-vận để chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công mới mà không cần che đậy và tăng cường lực lượng phòng không để ngăn chận nổ lực trinh sát trên không trung của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân Ðoàn 1, cũng thay đổi kế hoạch phòng thủ với Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến bảo vệ hướng Bắc tiếp giáp với Miền Bắc ở tỉnh Quảng Trị. Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến được tăng cường Trung Đoàn 51 của Sư Đoàn 1 BB bảo vệ phía Tây Quốc Lộ 1 thay thế Sư Đoàn Nhảy Dù. Sư Đoàn Nhảy Dù bảo vệ khu vực trọng yếu Cổ Bi-cầu An Lỗ. Sư Đoàn 1 BB đảm nhiệm khu vực phía Tây và Nam Huế chạy dài đến đèo Hải Vân. Sư Đoàn 3 Bộ Binh bảo vệ tỉnh Quảng Nam bao gồm thành phố Đà Nẵng và phía Bắc tỉnh Quảng Tín tại khu vực thung lũng Quế Sơn trong khi Sư Đoàn 2 Bộ Binh trách nhiệm từ phía Nam thung lũng Quế Sơn đến biên giới tỉnh Bình Định thuộc Quân Khu 2.<br /><br /><br />Hình chụp từ trực thăng UH-1 nhìn xuống căn cứ Cửa Việt. Ngày 28 tháng 1 năm 1973, lúc 7 giờ 58 phút sáng một lực lượng gồm 300 lính Cọp Biển VNCH đã chọc thủng phòng tuyến đối phương và sau đó cắm cờ ngay cảng Cửa Việt. Nhưng sau đó, ngày 31 tháng 1, hai trung đoàn Bắc Việt có chiến xa và pháo binh yểm trợ đã mở cuộc tấn công và dành lại căn cứ này. (HÌNH ẢNH: Herman W. Hughes)<br />Khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, nơi diễn ra trận đánh đẩm máu nhất trong chiến cuộc Việt Nam trong năm 1972, là khu vực yên tỉnh và ổn định nhất ở Quân Khu 1, nếu không nói là trên cả nước Việt Nam Cộng Hòa. Tiếng súng đã yên tỉnh từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1973 và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ngoài Trung Đoàn 51 của Sư Đoàn 1 BB còn kiểm soát 6 tiểu đoàn Địa Phương Quân và 12 đại đội Nghĩa Quân của tỉnh Quảng Trị, cùng Thiết Đoàn 18 Kỵ Binh và một chi đoàn chiến xa M-48.<br /><br />ChuẩnTướng Bùi Thế Lân, tư lệnh Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến , cho đóng xen kẻ các đơn vị TQLC với các đơn vị Ðịa Phương Quân Quảng Trị trong các vị trí phòng thủ. Cuối năm 1973, Tướng Lân nhận Liên Đoàn 15 BĐQ ra thay cho Trung Đoàn 51 Bộ Binh trở về lại Sư Đoàn 1. Tình hình yên tĩnh trong khu vực trách nhiệm cho phép Tướng Lân giữ một lữ đoàn làm trừ bị sư đoàn và các tiểu đoàn thay phiên về khu vực hậu cứ ở Thủ Đức nghĩ hai tuần dưỡng quân và thăm viếng gia đình. Mặc dầu phải trú quân và liên tục đối diện với kẻ thù Cộng Sản ở Quảng Trị từ đầu năm 1971, tinh thần chiến đấu của Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến được Phòng Tùy Viên Quân Sự Mỹ ở Việt Nam (Defense Attache’s Office-DAO) đánh giá là cao nhất trong toàn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Khu vực trọng yếu nhất bảo vệ Huế là cầu An Lỗ bắc ngang qua sông Bồ, cách Huế 15 km về phía Bắc bởì nếu khu vực này bị Bắc quân chiếm, Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến sẽ bị cắt đứt ở Quảng Trị với lãnh thổ còn lại của miền Nam Việt Nam. Do đó sư đoàn Nhảy Dù được giao trách nhiệm phòng thủ khu vực này, tăng cường hai tiểu đoàn Địa Phương Quân, một chi đoàn chiến xa M-48 và một chi đoàn thiết vận xa M-113.<br /><br />Từ tháng 5 năm 1972 khi toàn bộ Sư Đoàn Nhảy Dù được điều ra Quảng Trị để chuẩn bị phản công cho đến tháng Giêng năm 1974, sư đoàn đã bị thiệt hại 2 ngàn 900 chết, 12 ngàn bị thương và 300 mất tích. Với quân số khả dụng chỉ có 13 ngàn 500, có thể nói hầu hết các cấp chỉ huy tài ba cũng như những chiến binh dày dạn kinh nghiệm chiến trường đều đã chết hay bị thương. Các đơn vị Nhảy Dù vì vậy có nhiều tân binh hay sĩ quan chưa dầy dạn kinh nghiệm chiến trường. Đến cuối năm 1973, tinh thần chiến đấu cao cũng như truyền thống anh dũng của binh chủng này bị phần nào giảm bớt khi cuộc khủng hoảng kinh tế ở Miền Nam Việt Nam làm đời sống người lính và gia đình, vốn đã khốn khổ, càng thêm bi đát. Phẩm chất của lính và sĩ quan mới ngày càng suy giảm cũng như số lượng bổ sung không đủ trám vào những tổn thất chiến trận.<br /><br />Tuy có khó khăn, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, vẫn duy trì hai tiểu đoàn làm trừ bị sư đoàn. Khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn 1 BB bị áp lực nặng và Trung Đoàn 3 phải rút bỏ hai cứ điểm vào cuối tháng 7 và bốn vị trí dọc sông Bồ vào cuối tháng 8. Một loạt các cứ điểm dọc theo Ngoc Ke Trai lọt vào tay quân Bắc Việt trong tháng 11 đã làm mệt mỏi tinh thần chiến đấu của lính cũng như yếu kém trong vấn đề chỉ huy ở Sư Đoàn 1 BB. Sư đoàn này rất lừng danh và đã từng được nhiều niềm ngưỡng mộ. Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, tư lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, phải cho tăng cường một tiểu đoàn củaTrung Đoàn 1 và một tiểu đoàn của Trung Đoàn 51 vào khu vực trách nhiệm của Trung Đoàn 3 ở tuyến sông Bồ.<br /><br />Chỉ đến sau khi Trung Tướng Ngô Quang Trưởng thay Tướng Thân bằng Đại tá Nguyễn Văn Điềm vào ngày 31 tháng 10/1973 thì phòng tuyến mới ổn định. Tuy nhiên Đại tá Điềm cũng không cải thiện được nhiều về sự suy giảm về tinh thần của Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, do vượt ngoài khả năng của ông mặc dầu ông đã phục vụ lâu dài ở đơn vị này. Sư Đoàn 1 BB phải bảo vệ một khu vực trải dài theo Quốc Lộ 1 luôn luôn bị áp lực nặng của Bắc quân cũng như thời tiết khắc nghiệt và ảnh hưởng của những cơn mưa bảo triền miên. Sự thiếu hụt về tiếp tế cho các vị trí tiền đồn trên miền rừng núi cộng với điều kiện sinh sống ngày càng khó khăn của cuộc khủng hoảng kinh tế làm quyết tâm chiến đấu của người lính bị hao mòn dần.<br /><br />Trung Đoàn 54 giữ khu vực núi Mõ Tàu và các vị trí quan trọng ở sông Tả Trạch, qua quận Phú Lộc đến tận chân đèo Hải Vân. Núi Bạch Mã với độ cao 1,448 mét ở Phú Lộc là một vị trí lý tưởng để khống chế Quốc Lộ 1 và cắt đứt hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên với lãnh thổ còn lại của miền Nam Việt Nam. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa duy trì một cứ điểm ở đỉnh núi do hai đại đội Địa Phương Quân trú đóng, tiếp tế bằng trực thăng nhưng khi bị sương mù hay mưa lớn thì phải tiếp tế khổ cực bằng chân. Tháng 9 năm 1973 Bắc Quân tấn công và chiếm cao điểm này.<br /><br />-------<br /><br /><br />II. MẶT TRẬN NAM HẢI VÂN<br /><br />Khu vực Nam Hải Vân ở Quân Khu 1 của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) bao gồm ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi và thành phố Đà Nẵng, nơi đặt bộ tư lệnh Quân Đoàn 1/Quân Khu 1 do Trung Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ huy từ mùa hè 1972. Đà Nẵng cũng có một căn cứ không quân, hải quân và tiếp vận/yểm trợ to lớn do Quân Đội Hoa Kỳ xây dựng và để lại cùng với bộ tư lệnh của Sư Đoàn 3 Bộ Binh (BB), Sư Đoàn 1 Không Quân (KQ) và Hải Quân (HQ) Vùng 1 Duyên Hải. Với dân số 600,000 người, Đà Nẵng là thành phố lớn thứ nhì của Việt Nam Cộng Hòa với tầm quan trọng chỉ kém thủ đô Sàigòn. Ngoài Đà Nẵng, Quân Đội Mỹ cũng xây dựng mới một căn cứ quân sự lớn nằm sát biển Nam Hải trong tỉnh Quảng Tín ở giữa Tam Kỳ và ranh giới với Quảng Ngãi đặt tên là Chu Lai.<br /><br />Trước năm 1972, lực lượng đồng minh trấn đóng trong khu vực này gồm có Sư Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ, Sư Đoàn 23 BB Mỹ (Americal) và Lữ Đoàn 2 TQLC Đại Hàn (Thanh Long) trong khi Quân Lực VNCH có Trung Đoàn 51 biệt lập chịu trách nhiệm Biệt Khu Quảng Đà và Sư Đoàn 2 BB chịu trách nhiệm toàn bộ khu vực còn lạI với bộ chỉ huy sư đoàn ở căn cứ Chu Lai cùng vớI Thiết Đoàn 4 Kỵ Binh, Trung Đoàn 5 hoạt động gần HộI An (Quảng Nam), Trung Đoàn 6 tạI căn cứ Artillery Hill (Quảng Tín) và Trung Đoàn 4 tạI căn cứ Bronco (Quảng Ngãi). Do vùng trách nhiệm rộng lớn, Sư Đoàn 2 BB cũng được trợ lực bởi 6 tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân (BĐQ) Biên Phòng. Sau khi lực lượng đồng minh triệt thoái và Trung Đoàn 51 biệt lập tăng cường cho Sư Đoàn 1 BB bảo vệ phía tây Huế, lực lượng Việt Nam Cộng Hòa ở phía nam đèo Hải Vân bị yếu đi, không kể Sư Đoàn 2 BB là một trong các sư đoàn chủ lực yếu kém của VNCH. Tuy nhiên quân đội vẫn duy trì một mức độ kiểm soát an ninh vừa phải, được yểm trợ bởi một số phi vụ oanh kích chiến lược B-52 liên tục đánh xuống một vài mục tiêu chọn lọc.<br /><br /><br />Đèo Hải Vân, tháng 10 năm 2005, với bảng giao thông trên đường (HÌNH ẢNH: Christina Kelsey).<br /><br />Sau khi Sư Đoàn 3 BB tân lập bị tan hàng ở Quảng Trị trong mùa hè 1972, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 cho tái xây dựng lại ở Trung Tâm Huấn Luyện (TTHL) Hòa Cầm và giao cho trách nhiệm phòng giữ tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, dưới sự chỉ huy của vị tư lệnh mới là Chuẩn Tướng Nguyễn Duy Hinh, nguyên là tư lệnh Biệt Khu Quảng Đà và Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 1. Về phía Bắc Việt, khu vực Nam Hải Vân cùng với khu vực duyên hải Trung Phần của các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Phú Bổn và Khánh Hòa thuộc quyền chỉ huy của Quân Khu 5 (bí danh B-1) với bộ chỉ huy thường nằm ở khu vực Hiệp Đức ở tận cùng của thung lũng Quế Sơn phân chia hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín.<br /><br />Thiếu Tướng Chu Huy Mân là tư lệnh (Mân sau lên đại tướng và nắm chức Chính Ủy Toàn Quân), Võ Chí Công là chính ủy (Công sau làm chủ tịch nước Việt Nam Cộng Sản) và Đại Tá Đoàn Khuê là phó chính ủy (Khuê sau lên tướng giữ chức Tư Lệnh Quân Khu 5 rồi leo lên đến chức đại tướng và giữ chức Bộ Trưởng Quốc Phòng). Quân Khu 5 Cộng Sản có hai đại đơn vị chủ lực là Sư Đoàn 2 và 3 Bắc Việt. Sư Đoàn 2 hoạt động trong khu vực rừng núi phía tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, và Quảng Ngãi từ hậu cứ trong khu vực Hiệp Đức trong khi Sư Đoàn 3 (còn được gọi là sư đoàn "Sao Vàng") hoạt động ở phía nam Quảng Ngãi và Bình Định từ hậu cứ ở mật khu An Lão. Cuối năm 1971, để chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công Xuân-Hè 1972 (chiến dịch Nguyễn Huệ của Cộng Sản Bắc Việt), Quân Khu 5 Cộng sản cho thành lập Sư Đoàn 711 với 3 trung đoàn bộ binh gồm 31, 38 và 270 cùng Trung Đoàn 572 Pháo Binh-Thiết Giáp yểm trợ.<br /><br />Trong cuộc tổng tấn công này, Sư Đoàn 2 Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) di chuyển vào khu vực Tam Biên (biên giới ba nước Việt Nam, Lào và Cam Bốt) để hỗ trợ cho Mặt Trận Tây Nguyên (bí danh B-3) trong trận đánh Kontum. Bị thiệt hại nặng nề, đơn vị này rút về hậu cứ ở khu vực Hiệp Đức để dưỡng quân và tái xây dựng. Để trả công cho mặt trận B-1, mặt trận B-3 cũng gởi theo Trung Đoàn 52 của Sư Đoàn 320 về hoạt động trong tỉnh Quảng Ngãi. Sư Đoàn 3 CSBV, nổi tiếng với biệt danh Sao Vàng và hoạt động từ hậu cứ trong mật khu An Lão, tấn công và chiếm đóng ba quận Hoài Ân, Hoài Nhơn và Tam Quan ở phía bắc tỉnh Bình Định.<br /><br />Sau khi tan hàng ở Tân Cảnh, Sư Đoàn 22 BB được tái xây dựng lại và sau đó đã cùng Biệt Ðộng Quân tái chiếm lại ba quận trên, gây thiệt hại nặng cho Sư Đoàn 3 Sao Vàng. Mặt Trận B-1 cũng cho Sư Đoàn 711 được Trung Đoàn 572 Pháo Binh-Thiết Giáp yểm trợ tiến chiếm các quận lỵ Quế Sơn, Tiên Phước và Ba Tơ và gây áp lực nặng lên khu vực Mộ Đức và Đức Phổ trong tỉnh Quảng Ngãi. Đơn vị này sau đó đã bị thiệt hại nặng khi Quân Đoàn 1 dùng Sư Đoàn 2 và 3 BB cùng Biệt Ðộng Quân tái chiếm lại các vùng đất bị mất ở khu vực Nam Hải Vân.<br /><br />TÌNH HÌNH QUÂN SỰ CUỐI NĂM 1972<br /><br />Phối hợp với các mặt trận khác trong cuộc tổng tấn công Xuân-Hè 1972, và để giảm bớt áp lực của Quân Lực VNCH trong nổ lực tái chiếm lại thị xã Quảng Trị trong khu vực Bắc Hải Vân, Quân Khu 5 Cộng Sản cho Sư Đoàn 711 với Trung Đoàn 572 Pháo Binh-Thiết Giáp yểm trợ mở nhiều cuộc tấn công mạnh mẽ vào thung lũng Quế Sơn, tiến chiếm các quận lỵ Hiệp Đức, Quế Sơn và Tiên Phước. Bị mất ba quận lỵ trong khu vực trách nhiệm của mình, Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp xin từ chức dù Sư Đoàn 2 BB sau đó đã tái chiếm lại quận lỵ Quế Sơn và “người hùng An Lộc” Đại Tá Trần Văn Nhựt ra nắm chức tư lệnh Sư Đoàn 2 BB vào ngày 28 tháng 8/1972 khiến khả năng chiến đấu của đơn vị này cải thiện nhiều so với lúc trước.<br /><br />Khi này Trung Đoàn 5 và 6 của Sư Đoàn 2 BB bị thiệt hại nặng trong các trận đánh với Sư Đoàn 711 Bắc Việt (sau khi chiếm Quế Sơn đang lấn ra quận Duy Xuyên để uy hiếp Đà Nẵng), đang được bổ sung quân số bằng cách đôn quân từ lực lượng Ðịa Phương Quân/Nghĩa Quân trong hai tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi. Trung Đoàn 4 tăng cường cho Sư Đoàn Nhảy Dù ở mặt trận Quảng Trị vừa trở về. Đổi lại Sư Đoàn 2 BB được tăng cường với Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 3 BB để đảm nhiệm phần lãnh thổ trách nhiệm chạy dài 150 km theo Quốc Lộ 1 đến biên giới tỉnh Bình Định của Quân Khu 2.<br /><br />Cuối tháng Chín, Trung Đoàn 5 vào tăng cường cho Tiểu Đoàn 77 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng nhưng vẫn không giữ được Tiên Phước. Đại Tá Nhựt cho mở các cuộc hành quân để lấy lại thế chủ động và giải tỏa áp lực địch trong khu vực trách nhiệm, tập trung vào tỉnh Quảng Ngãi nơi Sư Đoàn 2 CSBV và Trung Đoàn 52 của Sư Đoàn 320 vừa chuyển về từ mặt trận Kontum. Đầu tiên là hành quân tái chiếm Tiên Phước với Trung Đoàn 6 tăng cường Trung Đoàn 2 từ Sư Đoàn 3 BB. Sau đó Sư Đoàn 2 BB cho Trung Đoàn 4 và 5 BB tăng cường Liên Đoàn 2 BĐQ và Tiểu Đoàn 78 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng, được Thiết Đoàn 4 Kỵ Binh yểm trợ mở cuộc hành quân giải tỏa Mộ Đức và Đức Phổ đang bị áp lực của Trung Đoàn 52 và Sư Đoàn 3 Sao Vàng.<br /><br />Sau thắng lợi Tiên Phước, Trung Đoàn 6 và Liên Đoàn 1 BĐQ mở cuộc hành quân giải tỏa khu vực bán đảo Ba Làng An với ngôi làng Mỹ Lai nổi tiếng. Trung Đoàn 5 cố gắng trái chiếm lại Ba Tơ do Trung Đoàn 52 CSBV giữ nhưng không thành công. Sau khi Sư Đoàn 3 BB tân lập bị tan hàng ở Quảng Trị trong mùa hè 1972, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1 cho tái xây dựng lại ở Trung Tâm Huấn Luyện Hòa Cầm và giao cho trách nhiệm phòng giữ tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, đặc biệt là ở hướng tây nam qua ngã thung lũng Quế Sơn và quận Đức Dục nơi mà Sư Đoàn 711 Bắc Việt đã cố chiếm được các mục tiêu quan trọng đặt phi trường và thành phố Đà Nẵng trong tầm pháo.<br /><br />Sư Đoàn 3 BB dùng Trung Đoàn 2 tăng cường Trung Đoàn 6 của Sư Đoàn 2 BB sau đó đã tái chiếm lại Tiên Phước, lấy lại tinh thần và niềm tin sau cuộc triệt thoái cay đắng khỏi Quảng Trị. Sư Đoàn 3 BB cũng tiến dần vào khu vực Hiệp Đức với căn cứ Ross là vị trí tiền đồn sâu nhất trong thung lũng Quế Sơn. Do thành quả này, Chuẩn Tướng Nguyễn Duy Hinh là tư lệnh sư đoàn duy nhất của Quân Lực VNCH được thăng cấp Thiếu Tướng trong năm 1973 và Sư Đoàn 3 BB được Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH đánh giá là một trong những sư đoàn khá nhất của quân đội..<br /><br />Từ hậu cứ ở Hiệp Đức, Sư Đoàn 711 Bắc Việt dàn quân trên các sườn núi hai bên thung lũng để chờ cơ hội tiến ra khu vực đồng bằng duyên hải. Cuối năm 1972 Sư Đoàn 3 BB mở cuộc hành quân tấn công vào khu vực căn cứ địa của Quân Khu 5 Cộng Sản ở Hiệp Đức và tiến khá sâu nên Trung Tướng Ngô Quang Trưởng khai thác thuận lợi này, cho tăng cường Trung Đoàn 51 từ Sư Đoàn 1 BB vào ngày 03 tháng 1/1973. Chuẩn Tướng Hinh dùng Trung Đoàn 51 để tấn công vào khu vực căn cứ West ở đồi 1460 bảo vệ Hiệp Đức từ phía đông trong khi Trung Đoàn 2 kiểm soát tỉnh lộ 534 dẫn vào Hiệp Đức.<br /><br />Tuy nhiên đến cuối tháng Giêng năm 1973, Sư Đoàn 3 BB phải hủy bỏ cuộc hành quân này để rút về yểm trợ cho các đơn vị Ðịa Phương Quân/Nghĩa Quân giải tỏa các cuộc hành quân “dành dân lấn đất” trước ngày ngưng bắn trong các khu vực phía tây và tây nam Đà Nẵng trong các quận Hiếu Đức, Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Đức Dục và Quế Sơn. Mặc dầu chỉ có hai sư đoàn bộ binh tương đối yếu cùng các đơn vị BĐQ Biên Phòng và Ðịa Phương Quân/Nghĩa Quân, Quân Lực VNCH vẫn có thể bảo vệ các trung tâm dân cư chính cũng như Quốc Lộ 1 huyết mạch chạy dọc theo bờ biển Nam Hải do các đơn vị Bắc quân không hùng hậu như ở phía bắc đèo Hải Vân và cả hai đơn vị chủ lực chính, Sư Đoàn 2 và 711, đều bị thiệt hại nặng nề.<br /><br />TÌNH HÌNH QUÂN SỰ SAU NGÀY NGƯNG BẮN<br /><br />Trong chiến dịch “dành dân, lấn đất,” quân Bắc Việt cho các đơn vị địa phương tấn công vào các quận lỵ, thôn xóm cũng như cắt đứt các trục giao thông liên lạc trên khắp khu vực Nam Hải Vân và pháo kích hỏa tiển vào Đà Nẵng. Tuy nhiên Quân Lực VNCH sau đó đã kịp thời mở các cuộc hành quân giải tỏa lấy lại được hầu hết các khu vực bị tạm chiếm cũng như gây thiệt hại nặng cho các đơn vị Bắc quân. Lúc ấy, ở phía nam tỉnh Quảng Ngãi đã xảy ra một trận đánh quan trọng trong giai đoạn ngừng bắn.<br /><br />TRẬN ĐÁNH SA HUỲNH<br /><br />Sa Huỳnh là một làng chài lưới và làm muối biển với 3,000 cư dân nằm ở phía nam quận Đức Phổ trên Quốc Lộ 1 tiếp giáp với tỉnh Bình Định thuộc lãnh thổ Quân Khu 2 do một tiểu đoàn Ðịa Phương Quân của tỉnh Quảng Ngãi bảo vệ. Do đây là một cửa khẩu quan trọng trên Quốc Lộ 1 huyết mạch nối liền hai quân khu cực bắc của Việt Nam Cộng Hòa nên Quân Khu 5 Cộng Sản đã chuẩn bị đánh chiếm để gây bất lợi về cả quân sự lẩn chính trị cho chính phủ VNCH. Mặt Trận B-1 sử dụng Trung Đoàn 141 tăng cường một tiểu đoàn của Trung Đoàn 1 từ Sư Đoàn 2 CSBV tấn công Sa Huỳnh từ hướng bắc trong khi hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 12 từ Sư Đoàn 3 Sao Vàng trong tỉnh Bình Định tấn công từ phía nam vào ngày 27 tháng 1/1973.<br /><br />Bị sáu tiểu đoàn Bắc quân tràn ngập, đơn vị Ðịa Phương Quân rút về cố thủ trong một cứ điểm cuối cùng trước khi thất thủ vào ngày hôm sau. Quốc Lộ 1 bị cắt đứt từ phía nam quận Đức Phổ của tỉnh Quảng Ngãi trong lãnh thổ Quân Khu 1 đến phía bắc quận Tam Quan của tỉnh Bình Định trong lãnh thổ Quân Khu 2. Do vị trí chiến lược quan trọng của Sa Huỳnh và để trả đủa hành vi xâm phạm hiệp định ngưng bắn ở Cửa Việt ở khu vực Bắc Hải Vân, Sư Đoàn 2 BB cho mở cuộc hành quân tái chiếm lại Sa Huỳnh.<br /><br /><br />Một ngôi làng gần cửa biển Sa Huỳnh (HÌNH ẢNH: VNCTLS sưu tầm).<br /><br /><br />Trung Đoàn 5 BB từ Quảng Tín vào đánh giải tỏa nhưng không thành công. Quân Khu 5 Cộng Sản cho tăng cường một tiểu đoàn phòng không và một đại đội hỏa tiển AT-3 (hỏa tiển chống chiến xa) yểm trợ cho sáu tiểu đoàn Bắc quân “đóng chốt” trên sườn núi và giữa Quốc Lộ 1 và bờ biển. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng phải cho tăng cường Liên Đoàn 1 BĐQ từ mặt trận Quảng Trị di chuyển vào Mộ Đức rồi tiến về Sa Huỳnh theo Quốc Lộ 1, thanh toán các mục tiêu dọc theo bờ biển trong khi Trung Đoàn 5 tiến chiếm các mục tiêu trên sườn núi. Quân Lực VNCH tiến rất chậm do địa thế hiểm trở trong khi Bắc quân “đóng chốt” trong các công sự phòng thủ kiên cố. Các đơn vị VNCH phải áp dụng chiến thuật đánh chốt ban đêm cũng như chặn đường liên lạc, tiếp tế và tải thương của Bắc quân ở phía sau.<br /><br />Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt cũng cho thi hành các hoạt động nghi binh như cho Trung Đoàn 4 BB ra vẻ chuẩn bị tái chiếm Ba Tơ để cầm chân Trung Đoàn 52 CSBV, không cho tăng viện cho Sa Huỳnh đồng thời cho quân vận hạm của Hải Quân VNCH chở binh sĩ với thiết vận xa M-113 chạy sát bờ biển và cho bắn phá vào khu vực này như sắp mở cuộc hành quân đổ bộ để thu hút Bắc quân ra hướng bờ biển. Tướng Nhựt cũng gởi các toán viễn thám vào sâu phía sau để báo cáo các hoạt động tăng viện cho Sa Huỳnh từ hướng mật khu An Lão trong tỉnh Bình Định của Sư Đoàn 3 Sao Vàng để cho quân đội VNCH dùng hỏa lực phi pháo tiêu diệt. Ngày 16 tháng 2 tướng Nhựt cho Trung Đoàn 4 BB được Thiết Đoàn 4 Kỵ Binh yểm trợ đánh thẳng vào dứt điểm Sa Huỳnh. Bắc quân cố chống trả nhưng cuối cùng phải rút bỏ để lại trên 600 xác.<br /><br />TÌNH HÌNH MẶT TRẬN NAM HẢI VÂN SAU NGÀY NGỪNG BẮN<br /><br />Khi hiệp định ngừng bắn Paris có hiệu lực thì tương tự như khu vực Bắc Hải Vân, phía CSBV kiểm soát được khu vực rừng núi thưa dân ở phía tây bao gồm quận lỵ Ba Tơ trong tỉnh Quảng Ngãi trong khi phía Việt Nam Cộng Hòa kiểm soát khu vực đồng bằng duyên hải nhỏ hẹp đông dân chạy dài từ đèo Hải Vân đến biên giới tỉnh Bình Định thuộc Quân Khu 2 bao gồm khu vực đồng bằng lớn nhất Miền Trung xung quanh thành phố Đà Nẵng. Quân Lực VNCH cũng duy trì các tiền đồn nằm sâu trong các khu vực rừng núi ở phía tây do Bắc quân kiểm soát như Thượng Đức, Đức Dục (Quảng Nam), Tiên Phước, Hậu Đức (Quảng Tín), Gia Vực, Minh Long (Quảng Ngãi). Sau trận đánh Sa Huỳnh, tình hình quân sự tương đối yên tỉnh so với ba quân khu khác và an ninh ở miền quê ổn định đến mức dân cư chạy nạn chiến tranh trong mùa hè 1972 đã trở về xây dựng lại cuộc sống mớI dưới sự bảo vệ của Quân Lực VNCH.<br /><br />Giữa năm 1973 do bị thiệt hại nặng nề, Quân Khu 5 Cộng Sản cho giải tán Sư Đoàn 711 và Trung Đoàn 270 của sư đoàn này. Trung Đoàn 31 và 38 sát nhập qua Sư Đoàn 2 CSBV trong khi các đơn vị còn lại được sát nhập vào Trung Đoàn 52 để hình thành Lữ Đoàn 52, hoạt động trong khu vực Quảng Ngãi. Được bổ sung chiến xa, đại pháo và súng phòng không từ Miền Bắc trong nổ lực tái xây dựng lực lượng chiến đấu trong Miền Nam bị thiệt hại nặng nề sau cuộc tổng tấn công Xuân-Hè 1972 và vi phạm trắng trợn hiệp định ngừng bắn, Quân Khu 5 cho thành lập Trung Đoàn 571 Thiết Giáp, Trung Đoàn 572 Pháo Binh và Trung Đoàn 573 Phòng Không là lực lượng yểm trợ chiến đấu chính của quân khu từ Trung Đoàn 572 Thiết Giáp-Phòng Không cũ.<br /><br /><br />Hình chụp vào mùa hè năm 1973 tại một ngôi làng nằm gần và về hướng tây Saigon. Vài người lính VNCH cùng một ông lão trong làng đang xem bản tin trên nhật báo nói về Hiệp Ðịnh Paris, một hiệp định đình chiến được ký kết giữa ba quốc gia để mang "hòa bình" đến trên toàn lãnh thổ Việt Nam. (HÌNH ẢNH: VNCTLS sưu tầm).<br />Sư Đoàn 3 BB do Chuẩn Tướng Nguyễn Duy Hinh chỉ huy chịu trách nhiệm tỉnh Quảng Nam bao gồm thành phố Đà Nẵng cho đến thung lũng Quế Sơn ngay ranh giới Quảng Tín. Tình hình ổn định cho phép tướng Hinh giữ toàn bộ Trung Đoàn 2 làm trừ bị sư đoàn trong khi Trung Đoàn 56 đóng ở phía nam quận Đại Lộc và phía bắc quận Đức Dục và Trung Đoàn 57đóng ở thung lũng Quế Sơn, mỗi trung đoàn giữ một tiểu đoàn là trừ bị trung đoàn. Tướng Hinh, một trong các tư lệnh sư đoàn hữu hiệu nhất của Quân Lực VNCH, tin tưởng rằng đơn vị ông có thể bảo vệ được Đà Nẵng.<br /><br />Trong khu vực 9 quận của tỉnh Quảng Nam, quân đội kiểm soát khu vực đồng bằng xung quanh Đà Nẵng nhưng 5 quận lỵ vẫn nằm trong tầm bắn của đại pháo 130 ly của quân Bắc Việt, đáng lo ngại nhất là Thượng Đức và Đức Dục nằm xa nhất về hướng Tây và Tây-Nam Ở phía nam, Sư Đoàn 2 BB dưới sự chỉ huy của Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt đã phải gánh nhiệm một trọng trách nặng nề và khó khăn là bảo vệ 150 km của Quốc Lộ 1 với nhiều cầu cống qua hai tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi cùng khu vực đồng bằng duyên hải và các trung tâm dân cư dọc theo quốc lộ này, không kể vị trí chiến lược Sa Huỳnh tiếp giáp với Quân Khu 2.<br /><br />Tướng Trưởng vì vậy thường tăng cường một hay hai liên đoàn Biệt Ðộng Quân trong khu vực hành quân của tướng Nhựt. Sau thắng lợi Sa Huỳnh, tướng Nhựt cho Sư Đoàn 2 BB và BĐQ yểm trợ cho các đơn vị Ðịa Phương Quân/Nghĩa Quân mở các cuộc hành quân giải tỏa ở phía tây Quốc Lộ 1để mở rộng khu vực an ninh hoạt động cũng như cắt đứt các đường tiếp tế của Bắc quân và cô lập họ với nguồn lương thực cũng như nhân lực cho công tác tuyển quân ở khu vực đồng bằng.<br /><br />Trung Đoàn 4 được giao cho nhiệm vụ quan trọng bảo vệ Sa Huỳnh và quận Đức Phổ. Trung Đoàn 5 hoạt động trong khu vực Mộ Đức trong khi Liên Đoàn 11 BĐQ dưới quyền chỉ huy hành quân của tướng Nhựt hoạt động trong quận Sơn Tịnh phía bắc thị xã Quảng Ngãi. Trung Đoàn 6 chịu trách nhiệm từ bộ tư lệnh sư đoàn ở Chu Lai đến phía bắc Tam Kỳ. Ngoài các hoạt động quấy phá như giật sập cầu trên Quốc Lộ 1 hay tấn công các thôn xóm hẻo lánh vào ban đêm, Bắc quân tập trung nổ lực tái xây dựng lại lực lượng chiến đấu, các căn cứ tiếp vận cũng như con đường chiến lược mới Đông Trường Sơn nối liền từ thung lũng A Shau xuống Bến Giang trong tỉnh Quảng Nam để nối vào Quốc Lộ 14, chuẩn bị chờ thời cơ để tiến chiếm Miền Nam.<br /><br />III. TỪ THẤT SƠN ÐẾN ÐỒNG THÁP ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG:<br /><br />Khu vực đồng bằng sông Cửu Long, còn gọi là Miền Tây, là viên ngọc quí của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Những cánh đồng lúa bạt ngàn và những vườn cây ăn trái xum xuê do phù sa của hai con sông Tiền Giang và Hậu Giang bồi đấp cùng một hệ thống 4,800 km (2,982 miles) sông, rạch, kinh đào chằng chịt là vựa lúa của VNCH, cung cấp gần 75% nhu cầu thực phẩm của cả nước. Hơn phân nửa dân số toàn quốc (khoảng 9 triệu người) sống đông đúc trong khu vực này, thuộc lãnh thổ Quân Khu 4, là nguồn nhân lực chính cho công tác tuyển quân. Khu vực này do đó có vai trò vô cùng trọng yếu về kinh tế và quân sự, ảnh hưởng đến sự sống còn của Miền Nam Việt Nam.<br /><br />Giao thông bằng thủy lộ do đó có vai trò vô cùng quan trọng ở khu vực này và việc kiểm soát các thủy lộ này, chận đứng nổ lực tiếp tế liên lạc và vận chuyển lương thực của Cộng Sản là một trong những mục tiêu chính của chính phủ VNCH trong chiến trận ở Miền Tây. Quân Khu 4 cũng có một biên giới dài giáp với Cam Bốt, chạy dài từ Hà Tiên sát vịnh Thái Lan đến khu vực Mỏ Vẹt (Parrot’s Beak) giáp với tỉnh Hậu Nghĩa của Quân Khu 3. Từ Hà Tiên đến thị xã Châu Đốc có bảy ngọn núi nhỏ nhô lên khống chế khu vực đồng bằng xung quanh từ Tịnh Biên đến Tri Tôn, bao gồm núi Sam nổi tiếng gần thị xã Châu Đốc với Chùa Bà và ngày hội lớn hằng năm. Khu vực bảy ngọn núi này do đó còn có tên là Thất Sơn. Trong khu vực này Quân Lực VNCH cũng có Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Chi Lăng, đảm trách việc huấn luyện cho các đơn vị Quân Lực VNCH ở Quân Khu 4.<br /><br /><br />Sông nước Vĩnh Long, nơi đóng quân của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh VNCH<br />(HÌNH ẢNH: Daniel Guip)<br /><br /><br />Từ Tân Châu đến khu vực Mỏ Vẹt là khu vực Đồng Tháp bao la, đồng lầy ngập nước vào mùa mưa như một biển hồ, có nơi sâu đến 4, 5 mét khiến tàu bè là phương tiện di chuyển đi lại duy nhất. Khu vực biên giới này do đó đã được Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) xây dựng thành một khu vực căn cứ địa (nối liền với hệ thống căn cứ địa trên đất Cam Bốt và hệ thống đường vận chuyển tiếp tế Sihanouk từ cảng Sihanoukville hay Kompong Som) và hành lang xâm nhập và tiếp tế cho cả khu vực Tiền Giang (chủ yếu là Định Tường và Kiến Hòa) lẫn Hậu Giang (chủ yếu là Chương Thiện và U Minh). Quốc Lộ 4 huyết mạch chạy dài qua Miền Tây và hai con sông lớn Tiền Giang và Hậu Giang nối liền thủ đô Saigon và Cà Mau là mạch máu kinh tế của Miền Nam và là trọng điểm an ninh của VNCH ở Miền Tây.<br /><br />Quân Khu 4 bao gồm 16 tỉnh: Định Tường, Gò Công, Kiến Hòa, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Sa Đéc, Kiến Phong, Kiến Tường, An Giang, Châu Đốc, Kiên Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Chương Thiện, Bạc Liêu và An Xuyên. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4/Quân Khu 4 đặt ở Cần Thơ, thành phố lớn nhất Miền Tây bên bờ sông Hậu Giang, còn được biết với tên Tây Đô. Cần Thơ cũng có phi trường Trà Nóc, căn cứ không yểm chính của Miền Tây và là Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Không Quân. Ở Bình Thủy cũng có Bộ Tư Lệnh Vùng 4 Sông Ngòi và căn cứ hải quân. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn 4 từ mùa hè 1972, thay thế Trung Tướng Ngô Quang Trưởng ra chỉ huy Quân Đoàn 1 sau khi tỉnh Quảng Trị mất vào tay CSBV trong cuộc tổng tấn công Xuân Hè 1972.<br /><br />Tướng Nghi, nguyên là tư lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh (BB), tiếp tục truyền thống của sư đoàn hoàng gia này, từng được chỉ huy bởi Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, thủ tướng chính phủ và Trung Tướng Đặng Văn Quang, cố vấn an ninh và quân sự cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tướng Nghi đã chứng tỏ tài chỉ huy cấp quân đoàn hiệu quả trong giai đoạn 1972-73 nhưng Sư Đoàn 21 BB từ vị trí sư đoàn thiện chiến nhất trong thập niên 1960 trở thành sư đoàn yếu kém nhất trong thập niên 1970 ở chiến trường Miền Tây.<br /><br />NHỮNG CHIẾN SĨ SÌNH LẦY<br /><br />Quân Đoàn 4, chỉ huy toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH trên lãnh thổ Quân Khu 4, với Sư Đoàn 7, 9 và 21 BB cùng Liên Đoàn 4 Biệt Ðộng Quân (BĐQ) là đơn vị trừ bị chiến thuật, yểm trợ bởi 200,000 lính Ðịa Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân (NQ). Do lính ĐPQ và NQ được tuyển mộ để phục vụ ở địa phương, với dân số gần phân nửa dân số toàn quốc, lực lượng ĐPQ/NQ của Quân Khu 4 chiếm gần phân nửa quân số của lực lượng ĐPQ/NQ toàn quốc và đông gấp 3 lần lực lượng ĐPQ/NQ ở Quân Khu 2 cũng như gấp đôi lực lượng này ở Quân Khu 1 và 3.<br /><br />Tổ chức thành 144 tiểu đoàn và 125 đại đội độc lập trú đóng trong 3,400 cứ điểm, lực lượng này đã góp phần không nhỏ trong nỗ lực bình định, giữ gìn an ninh cho các thôn xóm, đồng ruộng và vườn tược, hệ thống giao thông liên lạc rộng khắp cả trên bộ lẫn dưới nước, đặc biệt là hằng ngàn cây cầu lớn nhỏ bắt qua hệ thống sông rạch, kinh đào chằng chịt của Miền Tây. Sinh ra và lớn lên ở địa phương, người lính ĐPQ/NQ rất quen thuộc với địa hình phong thổ trong khu vực hoạt động cũng như chiến thuật du kích, mìn bẫy của cộng quân.<br /><br />Tuy nhiên hầu hết các đơn vị đều bị thiếu hụt quân số, đặc biệt là sĩ quan chỉ huy do phải hành quân thường xuyên và nạn lính ma lính kiểng. Sau khi phải rút bỏ 97 cứ điểm và mất 193 cái khác sau các cuộc đột kích của cộng quân trong năm 1973 ở Quân Khu 4, Bộ Tổng Tham Mưu (BTTM) Quân Lực VNCH và tướng Nghi, tư lệnh Quân Đoàn 4, cho rút bỏ các tiền đồn xa xôi, hẻo lánh, bị cô lập và khó tiếp tế cũng như gia tăng tính cơ động cho các tiểu đoàn ĐPQ để gia tăng hiệu quả chiến đãu và giảm thiệt hại. (Để biết rõ hơn về cuộc chiến đãu thầm lặng nhưng dai dẳng của những người lính ĐPQ/NQ ở Miền Tây, xin xem bài Viết Về Người Lính Địa Phương Quân của Nguyễn Hữu Nghĩa).<br /><br />Trong thập niên 1960, ba tiểu đoàn BĐQ mang số 42,43 và 44 của Liên Đoàn 4 BĐQ và một số đơn vị của Sư Đoàn 21 BB đã tạo nhiều chiến công hiển hách ở Miền Tây, tạo nên huyền thoại về những chiến sĩ sình lầy và những cấp chỉ huy tài ba như Lưu Trọng Kiệt, Hồ Ngọc Cẩn, Lê Minh Đảo, Lê Văn Hưng. Riêng Tiểu Đoàn 42 BĐQ do Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt (nguyên là Đại Đội Trưởng Đại Đội 21 Trinh Sát) chỉ huy nổi tiếng dưới danh hiệu Cọp Ba Đầu Rằn, đã được hai lần tuyên dương công trạng của Tổng Thống Hoa Kỳ (Presidential Unit Citation) cũng như Tiểu Đoàn 44 BĐQ cũng được tuyên dương công trạng này một lần.<br /><br />Đầu năm 1968, cũng để giảm bớt gánh nặng cho ba sư đoàn chủ lực của Quân Lực VNCH hoạt động ở Quân Khu 4, Biệt Khu 44 được hình thành để bảo vệ khu vực biên giới với Cam Bốt, kéo dài từ Hà Tiên trong tỉnh Kiên Giang đến khu vực Mỏ Vẹt ngay biên giới Kiến Tường-Long An, bao gồm các tỉnh Kiến Tường, Kiến Phong, Châu Đốc, và khu vực biên giới của tỉnh Kiên Giang, với Bộ Tư Lệnh ở thị xã Cao Lãnh. Đơn vị chiến đãu chính của Biệt Khu 44 là Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh, sử dụng Liên Đoàn 4 BĐQ, 8 tiểu đoàn BĐQ Biên Phòng và 5 thiết đoàn kỵ binh của Quân Đoàn 4. Từ sau cuộc hành quân vượt biên sang Cam Bốt trong năm 1970 đến cuộc tổng tấn công Xuân-Hè 1972 của Cộng Sản Bắc Việt, Biệt Khu 44 duy trì hai căn cứ tiền phương trên đất Cam Bốt ở Neak Luong và Kompong Trach, do các đơn vị Biệt Ðộng Quân giữ để bảo vệ khu vực biên giới.<br /><br />Lãnh thổ của Quân Khu 4 được phân chia trách nhiệm cho 3 sư đoàn chủ lực. Sư Đoàn 7 BB với bộ tư lệnh ở căn cứ Đồng Tâm gần thị xã Mỹ Tho, chịu trách nhiệm các tỉnh Định Tường, Gò Công và Kiến Hòa. Sư Đoàn 9 BB với bộ tư lệnh ở Sa Đéc, sau dời về Vĩnh Long, chịu trách nhiệm các tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Sa Đéc, An Giang và một phần tỉnh Kiên Giang, bao gồm thị xã Rạch Giá. Sư Đoàn 21 BB với bộ tư lệnh ở Bạc Liêu, chịu trách nhiệm các tỉnh Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu, và An Xuyên. Các thiết đoàn kỵ binh của binh chủng Thiết Giáp ở Miền Tây đều chỉ trang bị với thiết vận xa M-113 do chiến xa M-41 và M-48 không thích hợp với địa hình sình lầy ngập nước.<br /><br />Sư Đoàn 4 Không Quân với hai phi trường lớn ở Trà Nóc (Cần Thơ) và Sóc Trăng cung cấp các hoạt động không yểm. Do địa thế bờ biển dài với hai đảo Phú Quốc và Côn Sơn cùng với hệ thống sông rạch và kinh đào đan kín cả Miền Tây, Hải Quân VNCH có sự hiện diện mạnh mẽ ở Quân Khu 4 với Vùng 4 và Vùng 5 Duyên Hải và Vùng 4 Sông Ngòi để bảo vệ các thủy lộ và khu vực bờ biển, ngăn chận các hoạt động liên lạc tiếp tế của cộng quân cũng như yểm trợ cho các đơn vị bạn trên bờ. Vùng 4 Sông Ngòi với Bộ Tư Lệnh ở Cần Thơ chỉ huy 7 giang đoàn xung phong trú đóng ở Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ và Long Xuyên cùng các đơn vị yểm trợ.<br /><br />Ngoài ra còn có sự tăng cường của ba lực lượng đặc nhiệm (LLÐN) hải quân là Lực Lượng Đặc Nhiệm 211 (Thủy Bộ), Lực Lượng Đặc Nhiệm 212 (Tuần Thám) và Lực Lượng Đặc Nhiệm 214 (Trung Ương). Lực Lượng Đặc Nhiệm 212 (Tuần Thám) với Bộ Tư Lệnh ở Châu Đốc chỉ huy 14 giang đoàn tuần thám bảo vệ khu vực sông rạch dọc theo biên giới Việt Nam-Cam Bốt. Lực Lượng Đặc Nhiệm 214 (Trung Ương) với Bộ Tư Lệnh ở căn cứ Đồng Tâm chỉ huy các giang đoàn ngăn chận. Lực Lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ thường kết hợp các giang đoàn xung phong yểm trợ cho các đơn vị bộ chiến trong các cuộc hành quân truy lùng Cộng Sản trên các vùng sông rạch và kinh đào.<br /><br />Đầu năm 1974 các lực lượng đặc nhiệm ở Quân Khu 4 được sát nhập lại thành Hạm Đội Đặc Nhiệm 21 do Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng chỉ huy tổng cộng 362 tàu đủ loại, hoạt động từ 17 căn cứ trên khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tướng Thăng cũng chỉ huy đơn vị Hải Quân Vùng 4 Sông Ngòi. Vùng 4 Duyên Hải với Bộ Tư Lệnh ở căn cứ An Thới trên đảo Phú Quốc chịu trách nhiệm từ biên giới lãnh hải với Cam Bốt đến mũi Cà Mau với 26 tàu tuần trên biển trong khi Vùng 5 Duyên Hải với Bộ Tư Lệnh ở Năm Căn (Cà Mau) chịu trách nhiệm dọc theo bờ biển từ mũi Cà Mau đến khu vực biển Gò Công và Cần Giờ (Long An) với 27 tàu tuần biển.<br /><br />Theo tổ chức của quân đội Cộng Sản Bắc Việt, khu vực đồng bằng sông Cửu Long bao gồm luôn tỉnh Long An trực thuộc Mặt Trận Nam Bộ (hoặc Mặt Trận "B-2") với Quân Khu 8 trông coi khu vực Tiền Giang và Quân Khu 9 trông coi khu vực Hậu Giang. Sau khi được thăng vượt hai cấp cùng với Đồng Sỹ Nguyên trong kỳ thăng cấp cho các sĩ quan cao cấp toàn quân vào đầu năm 1974, Trung Tướng Lê Đức Anh giữ chức Tư Lệnh Quân Khu 9 kiêm Phó Tư Lệnh Mặt Trận B-2 trong khi Võ Văn Kiệt là Chính Ủy.<br /><br />Ở Quân Khu 8, Thiếu Tướng Đồng Văn Cống là tư lệnh trong khi Thiếu Tướng Lê Văn Tưởng là Chính Ủy. Trừ khu vực núi Thất Sơn ở khu vực Hà Tiên-Châu Đốc và khu vực đầm lầy ngập nước U Minh (chạy dài từ Rạch Giá qua Chương Thiện xuống đến Cà Mau) và Đồng Tháp Mười giáp với biên giới Cam Bốt, toàn bộ lãnh thổ còn lại là khu vực đồng bằng phì nhiêu nối liền nhau bởi một hệ thống thủy lộ rộng khắp và dầy đặc với phong cảnh vẫn còn mang nét đồng quê, tạo điều kiện thuận lợi cho chiến tranh du kích theo kiểu Cộng Sản.<br /><br />Trừ các khu vực căn cứ địa đã được xây dựng trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất như U Minh và Đồng Tháp là nơi các trung đoàn chủ lực trú đóng, các đơn vị du kích Cộng Sản thường phân tán thành các đơn vị nhỏ cấp tiểu đoàn trở xuống để tiện việc cơ động cũng như phân tán khi bị rượt đánh. Quân đội Bắc Việt có 11 trung đoàn chủ lực hoạt động ở Miền Tây trước giai đoạn ngừng bắn. Trung Đoàn 18B, 95A, D1 và D2 hoạt động trong khu vực U Minh Thượng-Chương Thiện trong khi Trung Đoàn 24, 88, và Đồng Tháp 1 hoạt động trong khu vực Định Tường, Trung Đoàn 320 hoạt động trong tỉnh Long An và Trung Đoàn Z-15 và Z-18 hoạt động trong khu vực Kiến Tường.<br /><br />Trung Đoàn D-3 hoạt động trong khu vực ranh giới hai tỉnh Vĩnh Long và Vĩnh Bình. Các đơn vị cộng quân thường được trang bị nhẹ và được yểm trợ chủ yếu bằng đại bác không giật (DKZ) và súng cối. Du kích Cộng Sản cũng sống lẫn vào dân, hoạt động tiếp cận với các viên chức chính quyền và người lính VNCH để dò la tin tức, tiếp tay cho các hoạt động đặc công, khủng bố, phá hoại. Đặc biệt là ở các vùng xôi đậu (vùng tranh chấp giữa hai bên VNCH và Cộng Sản) phe VNCH kiểm soát ban ngày nhưng phe CSBV kiểm soát vào ban đêm khiến người dân phải chịu nhiều áp lực từ cả hai phía.<br /><br />Quân Khu 4 do đó trở thành trọng điểm cho nổ lực dành dân, tuyển quân và thu mua lương thực của CSBV và nổ lực bình định và tuyển quân của VNCH. Mặc dầu chiến lược của Cộng Sản Bắc Việt và Mặt Trận B-2 cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long thay đổi thường xuyên, cuối năm 1969, Quân Ủy Trung Ương và Bộ Chính Trị Đảng CSVN xác định vai trò quan trọng chiến lược của khu vực này, cũng như chiến trường quan trọng ảnh hưởng đến kết thúc cuộc chiến. Sau đó Sư Đoàn 1 CSBV đang hoạt động ở khu vực Tây Nguyên đã di chuyển vào Nam và hoạt động dọc theo khu vực Hà Tiên-Thất Sơn từ khu vực căn cứ địa trên đất Cam Bốt.<br /><br />Sư đoàn này cũng phân tán các đơn vị trực thuộc, xâm nhập vào các căn cứ địa ở Miền Tây để tiếp tay cho các trung đoàn và tiểu đoàn chủ lực địa phương. Về phía VNCH, khu vực đồng bằng sông Cửu Long trở thành trọng điểm của nổ lực bình định của liên quân VNCH và Hoa Kỳ sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968. Trước đó lực lượng bộ chiến Mỹ và các nước Đồng Minh tập trung hoạt động ở ba quân khu phía trên trong khi Quân Khu 4 do địa hình phong thổ và vấn đề xã hội-lịch sử, hoàn toàn thuộc trách nhiệm của Việt Nam Cộng Hòa.<br /><br /><br />"Những Chiến Sĩ Sình Lầy" đang hành quân trên sông ngòi miền Nam<br />(HÌNH ẢNH: Fritz Degner)<br /><br />Sư Đoàn 9 BB Hoa Kỳ với hai lữ đoàn di chuyển xuống hoạt động trong các tỉnh Long An, Định Tường và Kiến Hòa. Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn cũng di chuyển từ Long Thành xuống Đồng Tâm cùng lúc với sự hình thành Lực Lượng Đặc Nhiệm Thủy bộ (Mobile Riverine Force), cùng với các toán biệt kích SEAL của Hải Quân Mỹ hoạt động trong khu vực Rừng Sát phía nam thủ đô Saigon và khu vực đồng bằng sông Cửu Long. (Ghi chú tác giả: Cựu thương nghị sĩ và thống đốc tiểu bang Nebraska ở Hoa Kỳ, ông Bob Kerrey từng là sĩ quan SEAL hoạt động trong khu vực này cũng như dọc theo duyên hải Việt Nam, từng bị chấn thương nặng ngoài khơi Nha Trang trong năm 1969, phải cưa chân và được ân thưởng huy chương cao quí nhất cho quân nhân Mỹ trong chiến đãu Congressional Medal of Honor.<br /><br />Ông Kerrey cũng bị đề cập trong vụ tai tiếng về thảm sát thường dân ủng hộ Cộng Sản ở tỉnh Kiến Hòa trước đó cũng vào dịp đầu năm 1969). Một căn cứ quân sự lớn lao được xây dựng mới ở phía tây thị xã Mỹ Tho, nằm dọc theo sông Tiền Giang và Kinh Xáng nối ra Quốc Lộ 4, đặt tên là Đồng Tâm. Liên kết Lực Lượng Xung Kích Sông Ngòi (Riverine Assault Force) 117 của Hải Quân Hoa Kỳ và Lữ Đoàn 2 của Sư Đoàn 9 BB Hoa Kỳ, lực lượng này cơ động nhanh chóng trên hệ thống sông rạch, kinh đào chằng chịt ở Miền Tây từ một căn cứ nổi tự hành to lớn, phối hợp hoạt động với các đơn vị của Quân Lực VNCH như Sư Đoàn 7 và 21 BB, Hải Quân Vùng 4 Sông Ngòi và Lữ Đoàn B TQLC Việt Nam tăng phái từ BTTM Quân Lực VNCH. (Ghi chú tác giả: Thượng nghị sĩ John Kerry của tiểu bang Massachusetts, và cũng là đương kim ứng viên tổng thống năm 2004 của đảng Dân Chủ, từng chỉ huy duyên tốc đỉnh PCF hoạt động trong khu vực Năm Căn (Cà Mau) và An Thới (Phú Quốc) trước khi hồi hương và tham gia phong trào phản chiến). S<br /><br />au khi quân đội Mỹ triệt thoái, để thay thế LLĐN Thủy Bộ Mỹ, Quân Lực VNCH cho thành lập Lực Lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ 211 bao gồm các giang đoàn xung phong của Hải Quân Vùng 4 Sông Ngòi và Lữ Đoàn B TQLC do Đại Tá Tôn Thất Soạn chỉ huy, hoạt động cho đến cuối năm 1970, bao gồm chiến dịch vượt biên sang Cam Bốt trong lãnh thổ Quân Khu 4. Tương tự như ở ba quân khu phía trên, Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ cũng thành lập một loạt các trại dân sự chiến đãu dọc theo biên giới Cam Bốt ở Quân Khu 4, từ Hà Tiên đến Đồng Tháp. Các căn cứ Tô Châu, Thạnh Trị, Tuyên Nhơn, Cái Cái, Bình Thành Thôn, Chi Lăng, Ba Xoài và Vinh Gia sau đó đã được chuyển giao lại cho Quân Lực VNCH, hình thành tám tiểu đoàn BĐQ Biên Phòng, dưới quyền chỉ huy của Biệt Khu 44.<br /><br />THẤT SƠN<br /><br />Khu vực Thất Sơn bao gồm bảy ngọn núi nhỏ với nhiều hang động nhô lên ngay biên giới Cam Bốt từ Tịnh Biên đến Tri Tôn, khống chế một khu vực đồng bằng rộng lớn của hai tỉnh Châu Đốc và Kiên Giang. Từ lâu Cộng Sản Bắc Việt đã xây dựng các căn cứ địa cùng kho tiếp vận trong các hang núi này. Sư Đoàn 1 CSBV từ khi di chuyển xuống đây từ khu vực Tây Nguyên vào cuối năm 1970 đã hoạt động trong khu vực này để yểm trợ cho hành lang tiếp tế và việc thu mua lương thực của CSBV từ khu vực căn cứ địa trên đất Cam Bốt qua các hệ thống thủy lộ trong tỉnh Châu Đốc và Kiên Giang xuống khu vực căn cứ địa của Quân Khu 9 Cộng Sản trong khu vực U Minh và tỉnh Chương Thiện.<br /><br />Sau ngày ngưng bắn, Việt Nam Cộng Hòa cho thực hiện hoạt động phong tỏa việc tiếp tế thu mua lúa gạo ở khu vực biên giới. Cùng lúc đó quân Cộng Sản Khmer Đỏ cũng ngăn chận việc thu mua lương thực của CSBV trên đất Cam Bốt khiến cộng quân lâm vào tình trạng khủng hoảng về lương thực. Con số cán binh Cộng Sản về hồi chánh tăng vọt. Ngày 24 tháng 8/1973 Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu xuống Cần Thơ để họp bàn về vấn đề kiểm soát và thu mua lúa gạo và phong tỏa nguồn lương thực tiếp tế cho Bắc quân. Đầu tháng Bảy năm 1973 Biệt Khu 44 mở cuộc hành quân tảo thanh khu vực Thất Sơn, loại bỏ mối đe dọa của Sư Đoàn 1 CSBV.<br /><br />Lực lượng tham chiến gồm có Liên Đoàn 4 và 7 BĐQ và Lữ Đoàn 4 Thiết Kỵ với tổng cộng 10 tiểu đoàn BĐQ và BĐQ-Biên Phòng. Sư Đoàn 1 CSBV có Trung Đoàn 52 hoạt động ở phía bắc Hà Tiên trong khi Trung Đoàn 101D và Trung Đoàn 44 Đặc Công xâm nhập vào khu vực Núi Dài và núi Cô Tô trong tháng Chín, bắn hỏa tiển và súng cối vào các trung tâm dân cư. Đến đầu tháng 10 thì do kiệt sức vì tổn thất chiến trận và thiếu hụt lương thực trầm trọng, Quân Khu 9 Cộng Sản phải giải tán Sư Đoàn 1 CSBV. Trung Đoàn 52 và Trung Đoàn 44 Đặc Công được sát nhập qua Trung Đoàn 101D, lúc này chỉ còn 300 bộ đội để hình thành đơn vị mới cấp lữ đoàn. Đơn vị này sau đó phải rút sang Cam Bốt để dưỡng quân. Mối đe dọa cho khu vực biên giới từ Hà Tiên đến Châu Đốc đã bị loại bỏ.<br /><br />HỒNG NGỰ<br /><br />Đầu năm 1973 thủ đô Nam Vang (Phnom Penh) của chính phủ Lon Nol thân Mỹ bị quân Cộng Sản Khmer Đỏ phong tỏa khiến sông Tiền Giang trở thành đường tiếp tế huyết mạch chính về đạn dược, nhiên liệu và lương thực cho Nam Vang do phi trường Pochentong thường xuyên bị pháo kích. Các tàu biển và xà lan tiếp tế tập trung ở khu vực Vũng Tàu để được tàu kéo dần theo sông Tiền Giang lên đến Tân Châu (An Giang) trước khi vượt biên giới sang Cam Bốt. Thị trấn Hồng Ngự nằm dọc bờ sông Tiền Giang trong tỉnh Kiến Phong trở thành mục tiêu chiến lược quan trọng cho thủy lộ tiếp tế này.<br /><br />Để đánh chiếm Hồng Ngự và cắt đứt thủy lộ tiếp tế cho Nam Vang, quân Bắc Việt sử dụng một lực lượng cấp sư đoàn gồm Trung Đoàn 207 độc lập, Trung Đoàn 174 của Sư Đoàn 5 và Trung Đoàn 272 của Sư Đoàn 9, được Trung Đoàn 75 Pháo yểm trợ tấn công vào quận Hồng Ngự vào tháng Ba năm 1973. Mặc dầu các đơn vị ĐPQ/NQ của chi khu Hồng Ngự đã chống trả quyết liệt và các phi vụ oanh tạc chiến lược của pháo đài bay B-52 trên hành lang dọc theo sông Cửu Long lên đến Nam Vang góp phần gây thiệt hại nặng cho cộng quân, áp lực Bắc quân vẫn đè nặng lên quận Hồng Ngự.<br /><br />Giang Đoàn 26 Xung Phong ở Long Xuyên được lệnh tăng viện và đã yểm trợ hữu hiệu cho quân bạn cùng với Sư Đoàn 4 Không Quân cho đến tháng Tư khi Trung Đoàn 15 của Sư Đoàn 9 BB và một liên đoàn ĐPQ cơ động được Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh yểm trợ mở cuộc phản công, khai thông bờ đông của sông Tiền Giang từ Hồng Ngự lên đến biên giới Cam Bốt và gây thiệt hại nặng nề cho Bắc quân, bỏ lại 422 xác trong khi phía Việt Nam Cộng Hòa có 94 chết, 743 bị thương và 36 mất tích. Tuy nhiên tổn thất về mặt dân sự khá cao với 80 chết và 300 ngôi nhà bị phá hủy do các cuộc pháo kích bằng hỏa tiển của cộng quân mà cao điểm là 123 hỏa tiển pháo vào thị xã Hồng Ngự trong tuần lễ thứ nhì của tháng Tư (chi tiết của cuộc hành quân này đã được kể lại trong bài viết Những Dòng Sông Cũ của Trần Đỗ Cẩm).<br /><br />ĐỒNG THÁP<br /><br />Sau thất bại ở trận đánh An Lộc, Mặt Trận B-2 Cộng Sản di chuyển Sư Đoàn 5 CSBV sang khu vực căn cứ địa trên đất Cam Bốt trong tỉnh Svay Riêng để bổ sung quân số rồi di chuyển xuống khu vực Đồng Tháp, xâm nhập vào tỉnh Kiến Tường vào tháng Sáu năm 1972. Đồng Tháp là một vùng đồng lầy hoang vu rộng lớn, được vây quang bởi sông Vàm Cỏ Tây ở phía đông, sông Tiền Giang ở phía tây, biên giới Cam Bốt ở phía bắc và Quốc lộ 4 huyết mạch chạy qua tỉnh Định Tường ở phía nam. Khu vực này không có nhiều sông ngòi nên hằng năm vào khoảng tháng Sáu nước sông Tiền Giang dâng cao đổ vào theo rạch Sở Hạ và rạch Cái Cái biến khu vực này thành một biển hồ ngập nước.<br /><br />Người ta có thể dùng ghe di chuyển từ biên giới Cam Bốt xuống tận thị xã Mỹ Tho. Khu vực sông Vàm Cỏ Tây có nhiều kinh rạch khiến sự lưu thông tương đối dễ dàng, dân cư sinh sống khá đông đúc bằng nghề ruộng rẩy. Khu vực trung tâm là vùng đồng lầy với nhiều cỏ lác không có bóng cây vào mùa khô và biến thành biển hồ mênh mông với nhiều đỉa, muổi, rắn. Chỉ có xuồng nhỏ là phương tiện di chuyển duy nhất. Khu vực giữa Hồng Ngự và Cao Lãnh gần sông Tiền Giang có nhiều kinh rạch, quan trọng là kinh Đồng Tiến nối liền hai sông Tiền Giang và Vàm Cỏ Tây, và việc đi lại trên bộ cũng thuận tiện trong mùa khô.<br /><br />Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư Lệnh Quân Đoàn 4, cho di chuyển nhanh chóng Sư Đoàn 7 BB vào khu vực Kiến Tường, đồng thời sử dụng hoạt động không yểm , gồm cả pháo đài bay B-52 để đánh phá các khu vực tình nghi tập kết của Bắc quân. Chiến sự diễn ra ác liệt ở khu vực Chân Tượng (Elephant’s Foot). Bắc quân sử dụng cả hỏa tiễn SA-7 (loại hỏa tiễn chống phi-cơ) lần đầu tiên ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Dưới sự chỉ huy tài ba của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam và dùng yếu tố thần tốc, Sư Đoàn 7 BB hoàn toàn làm chủ khu vực Chân Tượng vào cuối tháng Sáu.<br /><br />Tướng Nam sau đó đã để lại một trung đoàn để bảo vệ khu vực biên giới trong khi các thành phần còn lại rút về yểm trợ các đơn vị ĐPQ/NQ của tỉnh Định Tường đang phải đối phó với hai trung đoàn chủ lực Z-15 và ĐT-1 của Quân Khu 8 Cộng Sản đang gây rối trong khu vực Sầm Giang-Cai Lậy-Cái Bè. Để đối phó với áp lực gia tăng của Bắc quân trong tỉnh Định Tường, Quân Đoàn 4 tăng cường cho khu vực này Trung Đoàn 15 của Sư Đoàn 9 BB sau khi hoàn thành sứ mạng tăng cường cho Quân Khu 3 ở mặt trận An Lộc và hai liên đoàn BĐQ cùng Bộ Tư Lệnh BĐQ/Quân Khu 4.<br /><br />Bộ Tư Lệnh tiền phương Quân Đoàn 4 cũng được thành lập ở căn cứ Đồng Tâm do Chuẩn Tướng Nguyễn Thanh Hoàng, Tư Lệnh Phó Hành Quân của Quân Đoàn 4 chỉ huy. Đầu tháng Tám đơn vị BĐQ tiêu diệt các đơn vị Bắc quân trong khu vực Hậu Mỹ (Cái Bè). Quân đội VNCH đã thiết lập một số cứ điểm phòng thủ dọc theo kinh Tháp Mười. Đầu tháng 11 các đơn vị của Sư Đoàn 7 BB đánh tan một tiểu đoàn của Trung Đoàn 207 thuộc Sư Đoàn 5 CSBV từ Cam Bốt xâm nhập vào tỉnh Kiến Phong, bắt sống 73 tù binh (con số tù binh đông nhất trong một trận đánh riêng biệt trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai), hầu hết đều còn rất trẻ, thiếu dinh dưỡng và cho biết bị cấp chỉ huy chạy trốn bỏ rơi khi đụng trận.<br /><br />Sau khi mối đe dọa ở khu vực biên giới từ Hà Tiên đến Đồng Tháp bị loại bỏ vào cuối năm 1973, Biệt Khu 44 được giải tán. Trách nhiệm các tỉnh Kiến Tường, Vĩnh Long và Vĩnh Bình được chuyển giao cho Sư Đoàn 7 BB trong khi tỉnh Châu Đốc, Kiến Phong và bắc Kiên Giang thuộc về Sư Đoàn 9 BB. Cũng trong thời gian này, Chuẩn Tướng Huỳnh Văn Lạc thay thế Thiếu Tướng Trần Bá Di giữ chức tư lệnh Sư Đoàn 9 BB. Cuối năm 1973 khu binh chủng Biệt động Quân được tái tổ chức để đối phó với tình hình và nhu cầu chiến trường mới, các đơn vị BĐQ và BĐQ-Biên Phòng ở Quân Khu 4 bị giải tán, thuyên chuyển, sát nhập vào hệ thống tổ chức mới của binh chủng BĐQ ở ba quân khu phía bắc.<br /><br />Riêng Liên Đoàn 4 BĐQ nay thuộc quyền điểu động của bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH. ĐỊNH TƯỜNG Định Tường là tỉnh quan trọng nhất, đông dân nhất và trù phú nhất của khu chiến thuật Tiền Giang với Quốc Lộ 4 huyết mạch chạy xuyên qua tỉnh nối liền các tỉnh còn lại của Miền Tây với tỉnh Long An của Quân Khu 3, nguồn cung cấp lương thực và thực phẩm chính cho thủ đô Saigon cũng như phân phối đi cho cả nước. Ngoài sông Tiền Giang ở phía nam, tỉnh Định Tường cũng có một hệ thống sông rạch, kinh đào chằng chịt nối liền với khu vực Đồng Tháp cũng như tỉnh Long An và khu vực Saigon-Gia Định, quan trọng là kinh Chợ Gạo. Ngoài vai trò quan trọng về kinh tế và quân sự (Căn Cứ Đồng Tâm gần tỉnh lỵ Mỹ Tho là Bộ Tư Lệnh của Sư Đoàn 7 BB và căn cứ Hải Quân lớn sau khi Sư Đoàn 9 BB Mỹ triệt thoái), Định Tường còn là quê hương của phu nhân Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và gia đình Bà Thiệu vẫn sinh sống ở tỉnh lỵ Mỹ Tho.<br /><br /><br />Một đơn vị VNCH chuẩn bị cho cuộc hành quân thủy-bộ tại Cần Thơ<br />(HÌNH ẢNH: Robert Payette)<br /><br /><br />Đối với Cộng Sản Bắc Việt, Định Tường cũng có vai trò quan trọng chiến lược trong việc cắt đứt Quốc Lộ 4 để cô lập thủ đô Saigon về cả kinh tế lẫn quân sự cho cuộc tổng tấn công kết thúc cuộc chiến. Quân Khu 8 của Mặt Trận B-2 Cộng Sản có lúc có đến 6 trung đoàn chủ lực hoạt động trong tỉnh Định Tường từ khu vực căn cứ địa ở Trị Pháp trong khu vực Đồng Tháp và khu vực biên giới hai tỉnh Định Tường-Gò Công. Đầu năm 1974 để chận đứng hoạt động xâm nhập vào khu vực Trị Pháp để chờ thời cơ tràn xuống uy hiếp Quốc Lộ 4 của Sư Đoàn 5 CSBV, Quân Đoàn 4 cho mở cuộc hành quân lớn vào khu vực này và sau đó phối hợp với Quân Đoàn 3 mở chiến dịch vượt biên sang Cam Bốt để tiêu diệt khu vực căn cứ địa của Sư Đoàn 5 CSBV nằm trong tỉnh Svay Riêng.<br /><br />Cuộc hành quân này sẽ được nói đến trong bài viết Từ Trị Pháp đến Svay Riêng. Như đã nói ở trên, vai trò quan trọng của khu vực đồng bằng sông Cửu Long về kinh tế (chủ yếu là lương thực và thực phẩm) và nhân lực (công tác tuyển quân) cho nổ lực chiến tranh từ hai phía khiến khu vực này trở thành chiến trường chính cho các hoạt động dành dân và thu mua lương thực về phía CSBV cũng như bình định, kiểm soát lương thực và nhân lực về phía Việt Nam Cộng Hòa.<br /><br />TÌNH HÌNH CHIẾN SỰ Ở QUÂN KHU 4 CUỐI NĂM 1974<br /><br />Từ sau cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, Việt Nam Cộng Hòa đã có nhiều thành công trong nổ lực bình định ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, kiểm soát phần lớn đất đai và hầu hết dân chúng sinh sống trong khu vực này cũng như loại bỏ hạ tầng cơ sở Cộng Sản hoạt động nằm vùng. Phía Cộng Sản Bắc Việt chỉ còn tập trung hoạt động trong các khu vực căn cứ địa lâu đời trong khu vực U Minh, Đồng Tháp, Chương Thiện và Định Tường. Sau ngày ngưng bắn, với mối đe dọa dọc theo biên giới Cam Bốt bị loại bỏ, trọng tâm của Việt Nam Cộng Hòa là loại bỏ hay cô lập các khu vực "da beo" này, đó là các khu vực được Bắc quân sử dụng làm bàn đạp tấn công vào các khu vực đông dân trù phú khi có thời cơ.<br /><br />Ở khu vực Đồng Tháp, Sư Đoàn 7 và 9 BB của Việt Nam Cộng Hòa đã thành công lớn trong việc loại bỏ khu vực căn cứ địa chính của cộng quân ở Trị Pháp. Trong khu vực U Minh Thượng trong tỉnh Kiên Giang, quân đội cũng chiếm đóng khu vực đông dân Gò Quao và Giồng Riềng do Bắc quân kiểm soát. Sau Nghị Quyết 21, Quân Khu 8 và 9 Cộng Sản bắt đầu gia tăng các hoạt động khũng bố, lấn chiếm các đồn bót ở những nơi xa xôi, hẻo lánh. Nhìn chung mực độ chiến trận tương đối thấp so với ba quân khu ở phía trên. Tuy nhiên do quân viện bị cắt giảm trầm trọng, đặc biệt là nhiên liệu và đạn dược, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 phải cho rút bỏ các căn cứ tiền đồn hẻo lánh.<br /><br />Hải Quân Vùng 4 Sông Ngòi cũng cắt giảm 70% các hoạt động tuần tiểu trên sông và cho ngưng hoạt động gần 600 chiến đỉnh do thiếu cơ phận thay thế cũng như nhiên liệu và đạn dược để hoạt động. Tình hình an ninh trên sông rạch và các khu vực hẻo lánh do đó bắt đầu suy giảm. Để chuẩn bị đánh lớn trong cuộc tổng tiến công trong hai năm 1975-76, Mặt Trận B-2 Cộng Sản bắt đầu cho sát nhập các đơn vị chủ lực hoạt động độc lập để xây dựng các sư đoàn và trung đoàn chủ lực nhẹ. Ở Quân Khu 9 (Hậu Giang), Sư Đoàn 4 CSBV được thành lập từ các trung đoàn độc lập D1, 18B và 95. Ở Quân Khu 8 (Tiền Giang), Sư Đoàn 8 CSBV được thành lập từ các trung đoàn độc lập 24, ĐT-1 và 320.<br /><br />Theo kế hoạch của Mặt Trận B-2, ở Miền Tây, trọng điểm của Cộng Sản là 3 tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Bình và Kiến Hòa trong nổ lực chia cắt Quân Khu 4 để tiêu diệt, không cho các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa co lại cố thủ. Nếu kiểm soát được Vĩnh Long, Bắc quân sẽ cắt đứt Quốc lộ 4 và kiểm soát hai bến bắc chiến lược qua sông Tiền Giang và Hậu Giang, cô lập khu vực Hậu Giang. Bắc quân cũng mở rộng khu vực kiểm soát trong tỉnh Chương Thiện để có thể uy hiếp Cần Thơ, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4/Quân Khu 4 và phi trường Trà Nóc, căn cứ Không Quân chính ở đồng bằng sông Cửu Long và nơi đặt Bộ Tư Lệnh của Sư Đoàn 4 Không Quân.<br /><br />Ở khu vực Tiền Giang, trọng tâm của Bắc quân là sử dụng khu vực căn cứ địa Đồng Tháp để áp sát vào Quốc Lộ 4 và cắt đứt trục lộ huyết mạch này, không cho Sư Đoàn 7 và 9 BB rút về tăng cường phòng thủ Saigon. Đồng thời các trung đoàn độc lập của Quân Khu 8 trong tỉnh Định Tường cũng theo kinh Chợ Gạo tiến qua Long An để uy hiếp Saigon ở hướng đông nam từ khu vực Cần Đước, Cần Giuộc. Cùng lúc này các đơn vị chủ lực Bắc quân trong các tỉnh Vĩnh Long,Vĩnh Bình và Kiến Hòa cũng tiến về khu vực Cần Đước, Cần Giuột qua ngả Gò Công để hợp lực uy hiếp Saigon từ hướng nam.<br /><br />Tháng 11 năm 1974 do áp lực của phong trào chống tham nhũng và tòa đại sứ Mỹ, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải thay thế Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư Lệnh Quân Đoàn 4/Quân Khu 4 bằng Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, đang là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 BB. Tương tự như vị chỉ huy tiền nhiệm ở cả hai chức vụ tư lệnh Sư Đoàn 7 BB và Quân Đoàn 4 là Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh, tướng Nam có tiếng thanh liêm, sống đơn giản, đạm bạc, chăm lo nhiều cho binh sĩ dưới quyền và hết lòng phục vụ cho đất nước và quân đội theo đúng qui định về tổ quốc, danh dự và trách nhiệm. Xuất thân từ binh chủng Nhảy Dù và đã từng nắm chức chỉ huy cấp tiểu đoàn, chiến đoàn và lữ đoàn Dù, tướng Nam cũng có nhiều kinh nghiệm chiến trường cũng như khả năng chỉ huy tham mưu. Dưới quyền chỉ huy tài ba của tướng Thanh và Nam, Sư Đoàn 7 BB dần dần trở thành sư đoàn thiện chiến nhất của Quân Lực VNCH ở Miền Tây từ sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân.<br /><br />----------<br /><br /><br />Subject: Vết xích chiến xa trên đất Kontum mùa Hè đỏ lửa 1972 Print to printer<br />Author: comay <br /> <br />Lê Quang Vinh, Chi Ðoàn 1/8<br /><br />Mưa giăng phủ trên nền trời Kontum, hạt mưa nhẹ như sương mù, những hạt mưa chỉ mang lại ướt át, lầy lội, những hạt mưa không gây chết chóc ai. Nhưng giữa những cơn mưa vô tình đó là một vùng Komtum khói lửa. Ðịch pháo như mưa, pháo theo mưa liên tục trút xuống thành phố và các vị trí của quân ta mà Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn là mục tiêu mưa pháo của địch. Trong những cơn mưa pháo đó, mỗi khi đạn đạo của pháo thu ngắn lại do tầm điều chỉnh của Bắc quân, là vị trí của Chi Ðoàn bị ăn đạn. Lý do là vị trí phòng thủ của thiết giáp chỉ cách Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn chưa tới 500 mét. Gia đình kỵ binh các cấp đều ăn ngủ bên cạnh chiến xa, tất cả trong tình trạng sẳn sàng tác chiến, nhận lệnh, chỉ cần khoảng 2 phút là tất cả xích sắt chiến xa chuyển động. Cùng lúc, khả năng tác chiến của Chi Ðoàn được phục hồi sau khi được trực thăng tiếp tế cơ phận và sửa chữa các chiến xa bị hư. Chi Ðoàn có được 10 chiếc M41 trong tay sẳn sàng tham chiến.<br /><br />Giữa tháng 5/1972, SÐ23BB và các đơn vị thống thuộc đã bẽ gẵy ít nhất là 2 cuộc tấn công của Bắc quân, song áp lực địch vẫn còn đè nặng trên thị trấn Cao Nguyên này. Quốc lộ 14 lại bị chốt cứng tại đèo Chu Pao. Phương tiện tiếp tế duy nhứt cho mặt trận Kontum là thả dù, mà địa điểm thả là bãi thả dù nằm phía Nam khu nghĩa địa. Nếu dù tiếp tế rơi bên này bờ suối thì lọt vào tay bạn, nếu gió đưa dù qua bên kia bờ suối thì địch có dịp ăn gạo xấy, thịt hộp của phe ta! Cả tháng trời chỉ có gạo xấy và thịt hộp, không có một miếng rau hay lương thực tươi, mà nếu từ trời bỗng rơi xuống mấy miếng thịt heo tươi anh em cũng chưa chắc dám ăn. Cái cảnh heo ăn thịt người làm anh em lợm giọng. Trước mắt chúng tôi, có mấy lần chứng kiến bầy heo đói sút chuồng chạy rong dọc đường Nguyễn Huệ, Phương Nghĩa phía Nam phi trường Kontum. Ðàn heo giành nhau gậm xé một cái chân người, kéo lê trên vệ đường với chiếc giép râu còn dính chặc ở bàn chân, y như trong một phim ma kinh dị...<br /><br />Như mọi ngày, địch pháo ngày, pháo đêm, pháo trong cơn mưa, pháo khi trời nắng, pháo lúc sương mù... Nhưng đêm nay, địch bỗng ngưng pháo. Trực giác chiến trường cho biết có một cái gì bất thường, nghĩa là địch chuẩn bị giở trò. Các Chi Ðội báo động và tăng cường canh gác. Trời Kontum tối đen như mực, màn đêm lại rải xuống những cơn mưa phùn tê buốt thịt da, héo hắt lòng chinh nhân đang chong súng chờ giặc. Thời gian chầm chậm trôi như con kiến bò từ lổ chiếu môn đến đỉnh đầu ruồi, những con mắt chong vào đêm tối. Vừa qua khỏi nửa khuya, khắp nơi, hàng loạt tiếng nổ vang rền như phá tung màn đêm. Ðịch bắt đầu đợt tấn công mới. Qua hệ thống truyền tin, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn nhận các báo cáo:<br /><br />- Ðịch vào tới phi trường!<br /><br />- Ðịch tấn công Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 44BB trong thành Dak - Pha<br /><br />- Ðịch tấn công hậu cứ Trung Ðoàn 14 Kỵ Binh....<br /><br />Nằm trong tầm quan sát của Thiết Kỵ, trong cái tĩnh lặng của màn đêm lạnh lẽo giăng giăng mưa lạnh, chợt mìn chiếu sáng và claymore đồng loạt nổ rực sáng về phía cánh Bravo, nơi bãi thả dù tiếp tế những ngày vừa qua. Bravo khai hỏa. Ðại bác và đại liên nổ rền một góc thành phố Kontum. Mìn chiếu sáng và hỏa châu rọi rõ khu vực giao tranh, soi rõ bước chuyển quân của địch khi địch bị hỏa lực khủng khiếp của chiến xa bắn giạt về phía Nam khu trường học, nhưng cuộc di quân trốn đạn của định vẫn bị hỏa lực cánh Bravo bám chặt và bị dồn ngược lại để sau cùng lui về bờ suối, vừa rút vừa bắn trả bằng đại liên, B40, 41 và cả AT3 nhưng không gây thiệt hại cho các chiến xa cánh Bravo, vì địch không nhìn ra vị trí các chiến xa. Hỏa lực địch dồn vào vách các căn nhà cháy phía sau lưng kháng tuyến của Bravo.<br /><br />Hỏa châu đã thay mặt trời. Tiếng súng ngưng, chiến trường im lặng. Mặt trời lại từ từ bò lên thế hỏa châu. Tôi phóng ống dòm qua các vùng địch xâm nhập tấn công hồi đêm, xác địch nằm la liệt trên những gò đất, trên những bụi cây ngoài tuyến phòng thủ. Ðịnh bụng là sẽ xin lệnh Sư Ðoàn cho các đứa con bung ra truy kích và khai tác chiến quả, tôi chưa bốc máy thì bất ngờ Trung Tâm Hành Quân Sư Ðoàn gọi khẩn cấp:<br /><br />- Toàn bộ gia đình Tài Lực rời vị trí, giao lại cho Bộ Binh. Chuẩn bị cải cách để giải tỏa áp lực địch trong thành Dak - Pha và tái chiếm lại phi trường Kontum!<br /><br />- Tài Lực nhận rõ!<br /><br />Lệnh ra, trong phút chốc, tất cả chiến xa lăn xích rời vị trí tiến ngược vào thành phố, rẽ trái tại đường Lê Lợi rồi đổi hướng Bắc để vào thành Dak-Pha. Tại khu nghĩa địa nhỏ trước cổng Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn, địch ẩn nấp trong các gò mả và giao tranh ác liệt với Trinh Sát Sư Ðoàn. Cách thành Dak - Pha khoảng 500m về phía Nam, có một khu vườn mít, tôi cho lệnh các chiến xa chui hết vào trong đó để ẩn nấp và quan sát mục tiêu.<br /><br />Cổng thành Dak - Pha sập đổ nát nhưng bức tường thành phía Nam vẫn đứng nguyên sừng sững, phân chia trong và ngoài. Tôi nhìn đăm đăm vào tháp nước nơi khẩu 12 ly 8 của địch đặt trên nóc tháp tác xạ lên máy bay, tác xạ vào các cánh quân ta tiến vào trong thành. Không thể đi bằng cổng chính để làm mục tiêu cho địch tác xạ, tôi lệnh cho ba chiến xa dưới quyền:<br /><br />- Chuẩn bị khoan tường để tiến vào thành!<br /><br />- Nhận rõ!<br /><br />Ngay tức khắc, ba chiếc M41 như ba con cua sắt dương càng húc vào tường. Rầm! Rầm Rầm! Tường vừa sập, chiến xa tràn vào, tác xạ liên tục vô cổng chính và các căn nhà sập gần tháp nước, nơi địch bắn ra. Vừa lọt vào bờ thành là các chiến xa đầu chạm địch dữ dội. Toàn bộ Chi Ðoàn vượt qua bức tường đổ. Ðịch có mặt khắp nơi, trong đống gạch vụn, sau bức vách đổ, sau nhưng ngôi nhà sụp, trong hầm, trong hố, sau gốc cây... Chỗ nào cũng có tiếng súng địch nhắm vào thiết giáp.<br /><br />Bên cạnh, cuộc ác chiến từ hồi đêm còn đang diễn ra tại Bội Chỉ Huy Trung Ðoàn 44BB, nơi trước đó đã đặt Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn. Nhìn chung, địa thế rất khó điều động chiến xa. Tôi quyết định nhanh, chia gia đình ra từng phân đội, cứ hai chiến xa tiến theo một trục để yễm trợ và bảo vệ lẫn nhau. Trục tiến là đường đi giữa hai dãy nhà đổ nát, một chiếc chạy sát dãy bên phải, một chiếc chạy sát dãy bên trái, thận trọng tối đa khi tới ngả tư. Ðịch ẩn nấp trong những căn nhà đổ nát nên tất cả mọi loại vũ khí đều được đem ra sử dụng: Ðại bác phóng vào hầm địch, đại liên 50 và 30 dìm cứng địch trong vòng tử địa, lựu đạn được tung vào từng ô cửa sổ, từng góc nhà, từng lổ trống vách tường. Vũ khí chống chiến xa của địch bị vô hiệu vì khoảng cách hai bên quá gần. Trong trận quần thảo cận chiến sinh tử này, thế bám trận của địch bị vỡ và địch tháo chạy về hướng Bắc, để lại vô số cán binh bị chết và bị thương, một tổn thất nặng nề. Các đơn vị bộ binh của Trung Ðoàn 44 tức tốc tràn ra khỏi vị trí phòng thủ, và một trận phản công ác liệt diễn ra khắp nơi trong thành Dak- Pha.<br /><br />Chi Ðoàn đã hoàn thành nhiệm vụ. Trong trận giải tỏa thành Dak – Pha, Chi Ðoàn bị hy sinh cũng không nhỏ, kể cả 5 sĩ quan và 3 chiến xa bị hư hại. Dù vết thương còn đang rướm máu, gia đình Tài Lực lại nhận tiếp lệnh của thượng cấp: Rời Dak – Pha, giao lại cho Bộ Binh, di chuyển gấp để giải tỏa phi trường. Xích sắt chiến xa lại nghiến đường bụi đỏ mà ào ào tiến lên, lại lao vào "gió cát" mà chừng như nghe đâu đó âm thanh của một thứ "hồn tử sĩ gió ù ù thổi" trong gió Kontum từ thành Dak – Pha thổi theo vết lăn của xích sắt...<br /><br />* * *<br /><br />Phi trường Kontum nằm về phía Ðông của thành phố và ở vị trí Ðông Nam thành Dak - Pha. Phi đạo chạy dài theo chiều Ðông - Tây. Phía Nam phi đạo, gần cổng ra vào có vài căn nhà dành cho hành khách Air Việt Nam và An Ninh Phi Trường. Phía Bắc phi đạo có một số ụ để máy bay. Cuối phi đạo và dọc theo hàng rào phi trường là những lô cốt bảo vệ phi trường. Phi trường là một trong những mục tiêu quan yếu mà Bắc quân phải tấn chiếm.<br /><br />Tiếng khua động của xích sắt chiến xa không át được tiếng súng nổ vang mỗi lúc một rõ từ hướng hậu cứ Trung Ðoàn 14 Kỵ Binh. Tôi mừng trong bụng là tiếng đại liên 50 vẫn còn nổ ròn rã, vì điều nay cho biết địch chưa chiếm được căn cứ Trung Ðoàn, dù có nhiều đám cháy trong doanh trại. Từ các ụ máy bay cuối phi đạo, địch đặt đại liên bắn vào Trung Ðoàn Thiết Giáp để yễm trợ cho bộ binh tấn công vào hậu cứ Thiết Giáp và khu vực Quân Tiếp Vụ gần thành Dak - Pha... Một vài lô cốt bị địch thổi sập, nhưng địch vẫn chưa lọt vào được.<br /><br />Ðịch chưa vào được là hậu cứ Thiết Giáp chưa mất, lực lượng quân ta vẫn còn. Tôi lệnh cho phân đội chiến xa đầu bọc về phía Nam của hậu cứ Thiết Giáp, sau đó chuyển sang hướng Ðông rồi bố trí đợi lệnh. Tôi cần thời gian để quan sát, ước lượng ý đồ, khả năng và mục tiêu của địch... trước khi có kế hoạch tấn công. Ước lượng sai, hành động sai là tự sát. Ðịch đã ở trong vị thế đã dàn trận và tấn công. Tôi nghĩ đến cái câu của người xưa "biết mình biết địch, trăm trận trăm thắng." Thắng bại gì thì chưa biết, nhưng chỉ biết là yếu tố địch, khả năng địch, lực lượng địch, vũ khí địch... tôi chưa nắm hết, mà biết mình thì tôi biết khá rõ.<br /><br />Mặc dù được bổ sung trên 10 sĩ quan sau trận ác chiến trong nghĩa địa và sửa chữa, bổ sung chiến xa, nhưng khi giải tỏa thành Dak - Pha, gia đình Tài Lực bị hy sinh nghiêm trọng một số sĩ quan ưu tú để bây giờ, đối chiến với Bắc quân đã chiếm phi trường và đang uy hiếp dữ dội hậu cứ Trung Ðoàn 14 Kỵ Binh, Chi Ðoàn chỉ còn lại hai sĩ quan là Chi Ðoàn Trưởng và Thiếu úy Nguyễn Văn Tám. Các Chi Ðội, Phân Ðội chiến xa được trao quyền chỉ huy cho các Hạ Sĩ Quan Kỵ Binh kế quyền. Trong tình huống nguy khốn mà vết xích chiến xa chỉ có đường lăn tới, thầy trò chúng tôi đựa lưng nhau chiến đấu. Tôi gọi Tám:<br /><br />- Nhiệm vụ của cậu là ở lại với 2 M113 và bảo vệ cho 3 chiến xa bị hư. Tất cả chiến xa còn lại và anh em Hạ Sĩ Quan gia đình Chi Ðoàn do tôi điều động. Nhiệm vụ phải hoàn thành trong bất cứ tình huống nào! Cậu nhận rõ?<br /><br />- Rõ 5! Thẩm quyền!<br /><br />Giọng Tám chắc và quyết liệt. Tôi họp tham mưu bỏ túi với tất cả anh em còn lại mà trong đó tôi là Chi Ðoàn trưởng, người sĩ quan duy nhất trong trận đánh sắp diễn ra. Tuy nhiên, tôi vô cùng tin tưởng những Hạ Sĩ Quan Thiết Kỵ can đảm và đầy kinh nghiệm của Chi Ðoàn. Theo lệnh tôi, tất cả chiến xa còn lại của Chi Ðoàn được chia làm 3 Phân Ðội:<br /><br />- Phân đội 1 gồm 2 chiến xa, do Trung Sĩ Nhất Y – Ðê – Niê ( người Thượng) chỉ huy.<br /><br />- Phân đội 2 gồm 2 chiến xa, do Thượng Sĩ Bảo chỉ huy.<br /><br />- Phân đội chỉ huy gồm 3 chiến xa do tôi, Chi Ðoàn trưởng, trực tiếp chỉ huy.<br /><br />Qua hệ thống âm thoại đặc biệt của gia đình Tài Lực, tôi gọi, 2 Phân Ðội và giao trách nhiệm:<br /><br />- 1 tấn công địch ở ụ máy bay đầu. Phân Ðội Chỉ Huy trách nhiệm giữ cạnh sườn phải cho 1, sau khi 1 vào tới mục tiêu, Phân Ðội Chỉ Huy tấn công mục tiêu 2 ở ụ máy bay thứ hai. 2 bảo vệ phía Nam, và Ðông khi Phân Ðội Chỉ Huy chiếm mục tiêu thì 2 tức tốc tấn công mục tiêu 3 ở ụ máy bay thứ ba. Ngay sau đó, 1 rút ra bảo vệ cạnh sườn mặt Ðông cho 2. Tất cả 1,2 nhận rõ?<br /><br />- 1, 2 nhận rõ 5! Thẩm quyền!<br /><br />Xích sắt chiến xa bắt đầu lăn trên kế hoạch, sau lưng là bộ binh SÐ23 tùng thiết theo sát chiến xa. Bắc quân đang chỉa tất cả các loại vũ khí vào hậu cứ Trung Ðoàn Kỵ Binh, bất ngờ tiếng xích sắt vang sau lưng họ. Bắc quân ngỡ ngàng hoang mang trong tình huống này. Chỉ với 7 chiến xa mà Bắc quân đã chào đón vô cùng nồng nhiệt với pháo 130 ly, cối 120 ly, đại bác 75 ly không giật. Pháo địch bắn thành một hàng rào lửa cản chiến xa, lấy phi đạo làm ranh giới.<br /><br />Ðể tránh bị ăn pháo, tôi lệnh cho phân đội 1 tác xạ và lao thẳng vào mục tiêu với tốc độâ nhanh tối đa, trong lúc đó, phân đội chỉ huy trải lưới lửa vào cạnh sườn địch từ từ ụ máy bay 1 đến ụ máy bay 2. Chiến xa phân đội 1 đã gặp sự chống trả mãnh liệt của địch với đại liên được đặt ngay trên bờ thành cùng với B40 và B41 tác xạ thẳng vào đội hình của phân đội, đồng thời pháo và đại bác 75 ly không giật của địch từ cuối phi đạo cũng đồng loạt trút đạn vào các chiến xa đang tấn công. Chiến xa vẫn tiến. Một trung đội bộ binh bám sát theo chiến xa. Mục tiêu địch càng lúc càng gần, và "Ầm! Ầm!" Ðại lên địch trên bờ thành ụ máy bay số 1 bị đại bác chiến xa bắn tung, chiến xa ủi mục tiêu và bộ binh tràn ngập liền sau đó. Tiếng hô "xung phong" muốn át cả tiếng đạn nổ vang trời.<br /><br />Trận đánh càng lúc càng ác liệt và không kém phần hào hứng. Tinh thần chiến đấu tuyệt vời của Thiết Giáp và Bộ Binh SÐ23 thể hiện rõ ngay trên trận mạc máu lửa. Người trúng đạn nằm lại tại chỗ, còn khả năng bắn yễm trợ anh em cứ tiếp tục bắn. Người không bị đạn cứ tiếp tục xông vào phía trước. Chiến xa nào đứt xích thì nằm lại, tiếp tục tác xạ theo khả năng còn lại của mình, chiến xa nào còn nguyên cứ lăn xích xông tới. Cả 3 phân đội chiến xa và bộ binh quần thảo với địch đến xế chiều, từng ụ đại liên địch, từ ụ 75 ly không giật của địch... liên tục bị nổ tung và tràn ngập. Ðến chiều cùng ngày, Bắc quân bị đẩy sát hàng rào phía Ðông phi trường và sau đó bị quét sạch.<br /><br />Súng im tiếng trên toàn phi trường và hậu cứ Trung Ðoàn Kỵ Binh. Khói từ những đám cháy còn phảng phất trong ánh chiều tà. Trận địa xơ xác, tiêu điều, những vị trí súng bị phá hủy, những thây người, những vết xích ngang dọc. Tôi cho chiến xa tiếp cận hàng rào phi trường về mặt Ðông, số tử thương của địch bỏ lại nơi này có hơn một tiểu đoàn.<br /><br />Màn đêm kép sụp đến che kín dần những tang thương đổ nát của chiến trường. Công tác thu dọn chiến trường và tản thương xong, gia đình Tài Lực di chuyển về vị trí được chỉ định, và mắt vẫn chong vào bóng đêm vất vưởng âm hồn tử sỉ hai bên.<br /><br />Lê Quang Vinh<br /><br />Phụ chú liên hệ:<br /><br />- Ngày 3/5/1972, TT Việt Nam Cộng Hòa bay lên Kontum, đáp trực thăng đến mặt trận thăm viếng và ủy lạo chiến sĩ. Mùi thuốc súng vẫn chưa tan trong thành phố. Cùng ngày, vị Tổng Tư Lệnh Quân Ðội đã gắn một sao lên cổ áo vị Ðại Tá Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Lý Tòng Bá, đồng thời cũng là tư lệnh chiến trường Kontum 1972. Cùng lúc, có quyết định thăng một cấp cho hầu hết các chiến binh tham dự mặt trận.<br /><br />Chi Ðoàn Thiết Kỵ 1/8 đã là một trong những nhân tố vô cùng quan trọng đóng góp cho chiến thắng giải tỏa và cứu Kontum, từ ngày nhổ chốt Chu Pao đến lúc chiếm lại phi trường Kontum. Chi Ðoàn đã hy sinh cho chiến thắng này:<br /><br />- 68 kỵ binh mũ đen, trong đó có 18 sĩ quan.<br />- Trên 300 bị thương<br />- 2 chiến xa M41 bị phá hủy.<br />- 10 chiến xa bị hư hại nặng.<br /><br />Ðổi lại về phía địch:<br /><br />- Trên 10 chiến xa T54 bị bắn cháy.<br />- Bắt sống một T54 còn nguyên vẹn.<br />- Hơn một ngàn chết bỏ xác tại trận địa, số tử thương và bị thương được đồng đội mang theo không rõ.<br /><br />Chi Ðoàn, với những tổn thất nặng nề như trên nhưng lúc nào cũng còn khả năng tác chiến và hoàn thành nhiệm vụ trong khói lửa, một phần nhờ lòng ưu ái của Ðại tá Nguyễn Xuân Hường, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8 Kỵ Binh Thiết Giáp. Gần như Ðại tá Hường đã vét cạn nhân lực của hai Chi Ðoàn 2/8 và 3/8 để bổ sung cho 1/8 sau những trận giao tranh nặng nề. Ðiều này được thể hiện rõ trong trận giải tỏa phi trường Kontum và hậu cứ Trung Ðoàn 14 Kỵ Binh. Khi trực thăng còn đang đáp xuống sân vận động để di tản thương binh cũng là lúc những sĩ quan và binh sĩ Kỵ Binh Thiết Giáp đổ xuống từ trực thăng để tăng cường, bổ sung cho gia đình 1/8 kịp lúc cho những trận đánh kế tiếp. Chính vì thế, toàn thể Kỵ Binh Thiết Giáp, nhất là Chi Ðoàn 1/8, đã rất kính mến người anh cả Kỵ Binh Ðại tá Nguyễn Xuân Hường.<br /><br />Sau khi Kontum được giải tỏa, Chi Ðoàn 1/8 vẫn lại là đơn vị Thiết Kỵ duy nhất ở lại Kontum chứ không được thay thế để dưỡng quân, để rồi vài tháng sau đó, 1/8 Thiết kỵ lại cùng Bộ Binh SÐ23 lại quần thảo với Bắc quân trong một trận dạ chiến ác liệt để tái chiếm căn cứ hỏa lực Non Nước gần Ngô Trang nằm về hướng Tây Bắc Kontum, đánh bật 2 tiểu đoàn địch ra khỏi vị trí đóng chốt, cứu nguy cho Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 53 và toán cố vấn Mỹ.<br /><br />Khi căn cứ hỏa lực Non Nước lọt lại vào tay ta, Trung tá cố vấn trưởng Trung Ðoàn đã nói trước mọi người:<br /><br />- Ðây là đơn vị chiến xa tuyệt vời mà lần đầu tiên trong đời binh nghiệp tôi mới chứng kiến trong trận đánh!<br /><br />Cũng sau đó, chính ông đã đề nghị cấp huy chương "anh dũng bội tinh/silver star " của Hoa Kỳ cho Chi Ðoàn Truởng 1/8 Thiết Kỵ Lê Quang Vinh.<br /><br />Thai Duong 530 Fighter Squadron, A-1 Skyraiders, Cu-Hanh-Pleiku Air Base, Vietnam<br /><br />Hòa Bình Vang Tiếng Súng<br /><br />Subject: Hoà bình vang tiếng súng <br />Author: comay <br /> <br />Tác giả: Mê Kông</span>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-81359789007113223482008-12-12T23:05:00.000-08:002008-12-12T23:18:54.794-08:00Chuyến bay tử thần vào đồi 31 Hạ Lào<a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjK48e8vAu8t-bMvOZLLbqaAiZ5_edAntj8UkZnSzYedfBwK0CA3_LlvcOLqx_DIkma0wpa8w6_MyCpV3cedx_LOkoSkA9TBrX08SPyIsof42-Y_TcS3SYESU5LIOa6_mAXZiJyGNw5Qoc/s1600-h/2596885750031690022RYnwpz_ph.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;width: 309px; height: 400px;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjK48e8vAu8t-bMvOZLLbqaAiZ5_edAntj8UkZnSzYedfBwK0CA3_LlvcOLqx_DIkma0wpa8w6_MyCpV3cedx_LOkoSkA9TBrX08SPyIsof42-Y_TcS3SYESU5LIOa6_mAXZiJyGNw5Qoc/s400/2596885750031690022RYnwpz_ph.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5279170775284403426" /></a><br /><span style="font-weight:bold;">Kingbee Bùi Tá Khánh.<br /> <br /><br />Chuyện về cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh sang Hạ Lào nhằm cắt đứt đường mòn HCM đã được nhiều người viết ra. Ðầu tiên là nhà văn Phạm Huấn với quyển "Trận Hạ Lào năm 1971", rồi nhà văn nhảy Dù Lê Ðình Châu, đại uý đại đội trưởng đại đội công vụ nằm vòng đai bảo vệ cho Lữ đoàn 3 nhảy Dù trên đồi 31 cũng ra mắt quyển "Ðôi mắt người TùBinh", và anh Nguyễn Văn Long, thiếu uý sĩ quan phụ tá ban 2 Lữ Ðoàn 3 nhảy Dù vẫn thường xuyên viết về Hạ Lào cho Ðặc San Nhảy Dù ỡ Úc Châu. Ở đây, tôi chỉ ghi lại câu chuyện như là một mẩu hồi ức dưới mắt nhìn của một người lính Không Quân.<br /><br />Tôi là một hoa tiêu phục vụ trong phi đoàn 219, thuộc Không Ðoàn 51, Sư Ðoàn I KQ trú đóng tại Ðà Nẵng. Phi đoàn 219 là hậu thân của biệt đoàn 83 với nhiệm vụ tiến hành cuộc chiến tranh thầm lặng trong bóng tối nhằm gây rối, phá hoại hậu phương của địch. Vì thế tất cả phi cơ của phi đoàn 219 chỉ sơn toàn bệt màu đen và xanh lá cây xẫm bên trên phần bụng trắng và không mang phù hiệu hay cờ gì cả ngoài số serial number mà thôi. Là một phi đoàn chỉ thi hành những phi vụ đặc biệt ngoài lãnh thổ và ngoài những cuộc hành quân bình thường, nhưng trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, nằm trong kế hoạch được mệnh danh là Việt hoá chiến tranh, một cuộc hành quân quan trọng lần đầu tiên hoàn toàn do QLVNCH đảm nhiệm với sự yểm trợ tối thiểu của không lực Hoa Kỳ trong những ngày đầu với những loại trực thăng khổng lồ chuyên chở những xe cơ giới hạng nặng như xe ủi đất, lô cốt tiền chế, đại pháo 105 và 155 ly để QLVNCH dọn bãi thiết lập những căn cứ hoả lực đầu cầu trên đất Lào. Vì thế nên Quân Ðoàn I đã phải trưng dụng tất cả những đơn vị KQ trực thuộc Sư Ðoàn I KQ trong đó có phi đoàn 219. Như vậy phi đoàn chúng tôi, ngoài những phi vụ đặc biệt thường lệ, lại phải đảm nhiệm thêm việc yểm trợ cho Sư Ðoàn Dù, một trong 3 lực lượng nòng cốt trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Mỗi ngày phi đoàn 219 tăng phái một phi đội gồm 2 hoặc 3 chiếc H34 nằm trực chiến tại Khe Sanh, nơi đặt bản doanh Bộ chỉ huy tiền phương Sư Ðoàn Dù. Từ đây chúng tôi xuất phát những phi vụ tiếp tế lương thực, đạn dược cho các căn cứ hoả lực 29, 30 , 31 và các đơn vị hành quân lục soát bên ngoài căn cứ. Những phi vụ này thường là rất "hot", nhưng "hot" nhất vẫn là những phi vụ tải thương cho binh sĩ nhảy Dù khi có đụng độ với quân cộng sản Bắc Việt. Và chuyện này xảy ra như cơm bữa hàng ngày nên chúng tôi coi như pha. Chúng tôi cứ luân phiên nhau mỗi phi đội trực chiến cho Sư Ðoàn Dù 4 ngày rồi trở về Ðà Nẵng tiếp tục những phi vụ thường nhật.<br /><br />Hôm nay đến phiên trực của chúng tôi. Phi đội gồm có 2 phi cơ do anh Chung tử Bửu lead, tôi copilot và Nguyễn văn Em là mêvô, chiếc thứ hai tôi chỉ nhớ hoa tiêu chánh là anh Yên. Chúng tôi vào phi đoàn nhận lệnh vào lúc 8 giờ sáng rồi chia tay nhau về nhà sửa soạn hành trang, hẹn gặp nhau lúc 10 giờ ngoài phi đạo 219.<br /><br />Ðúng giờ hẹn, chúng tôi ra phi cơ làm tiền phi, check nhớt, xăng, load những cơ phận sửa chữa dự trữ, đồ nghề và anh em kỹ thuật 219 rồi cất cánh, trực chỉ Ðông Hà, Quảng Trị. Khoảng quá trưa thì chúng tôi ra đến Khe Sanh. Vừa đến nơi, không màng ăn trưa vì nóng lòng muốn cứu đồng đội nên chúng tôi quyết định phải vào ngay đồi 31 chứ không thể đợi lâu hơn được. Trong khi anh Bửu vào trình diện với Bộ Chỉ Huy Tiền Phương SÐ Dù để đặt kế hoạch cho chuyến bay thì tôi và mêvô Em đi check lại máy bay. Xăng vẫn còn đầy bình trước, dư sức bay không cần phải refuel.<br /><br />Một lát sau từ phòng briefing ra, anh Bửu vắn tắt cho anh em biết về phi vụ quyết tử này. Chuyến vào chúng ta sẽ chở theo một tiểu đội tác chến điện tử Dù cùng với 18 chiếc máy "sensor" vào tăng phái cho căn cứ 31 dùng để phát giác đặc công địch, chuyến ra sẽ rước phi hành đoàn anh Nguyễn thanh Giang về. 15 phút trước khi lên vùng, pháo binh Dù sẽ bắn dọn đường mở một hành lang dọc theo quốc lộ 9, dập vào những địa điểm được ghi nhận có phòng không địch vì tình hình lúc này rất gây cấn, địch tập trung lên đến cấp tiểu đoàn phòng không gồm đủ loại từ 37 mm, 12ly7 và lần đầu tiên còn nghe có cả SA7 nữa. Về không trợ thì có 2 chiếc Gunship của phi đoàn 233 do trung uý Thục bay trước mở đường.<br /><br />Trước đó trong lúc briefing, anh Bửu đã được nói chuyện trực tiếp với anh Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng anh Giang đã dùng chiến thuật "lá vàng rơi", từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống gãy đuôi nằm bên cạnh vòng rào phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot là Võ văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ, mêvô Trần hùng Sơn không quên vác theo cả cây M60 trên cửa máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay anh Bửu bay Rase Motte sát ngọn cây theo hướng Ðông-Tây đi vào. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9 tôi còn nhìn thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh Dù bắn rất chính xác và hiệu qủa. Gần đến LZ anh Bửu đổi hướng lấy cấp Ðông Nam-Tây Bắc để đáp xuống. Vừa ló ra khỏi rặng cây, tôi đã thấy chiếc Gunship của trung uý Thục bay vòng lại, cùng với tiếng anh la lên trong máy "Bửu coi chừng phòng không ở hướng Tây". Từ trên phi cơ nhìn xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn đồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên từng cơn vì đạn pháo kích quấy phá của cộng quân bắc Việt. Không nao núng, anh Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống. Khi phi cơ còn cách mặt đất độ 15 thước thì trúng một tràng đạn phòng không, phi cơ phát hoả, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, mêvô Em la lên khẩn cấp trong máy "đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy". Cùng lúc anh Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc wing "Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa" trong khi vẫn bình tĩnh đáp xuống. May mắn là đạn trúng vào bình xăng phụ đã hết xăng, chỉ còn ít hơi đốt, nên phi cơ không bắt cháy như phi cơ đại uý An ở Bù Ðốp hôm nào. Vừa chạm đất, theo phản xạ tôi cùng anh Bửu nhanh tay tắt gió, xăng, điện rồi nhảy ra khỏi phi cơ. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào phòng thủ thứ nhất của đại đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước. Tôi còn tiếc chiếc xách tay quần áo nên phóng vào trong phi cơ để lấy. Một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy "sensor" vẫn còn nguyên vẹn. Tôi chỉ kịp vớ lấy cái xách tay rồi phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù "trên đây nè thiếu uý, tụi tôi bắn yểm trợ cho". Tôi lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc chóc trên đầu. Lên đến nơi tôi thở như bò rống. Không quân mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu. Tôi nhớ mãi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971.<br /><br />Vừa ngồi nghỉ mệt, tôi vừa nhìn xuống bãi tải thương nơi chiếc phi cơ đang đậu hiền lành, thì cũng vừa lúc địch điều chỉnh tác xạ, một quả đạn đạn súng cối rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy khói đen mù mịt cả một góc trời. Tôi nhìn con tàu xụm xuống, lòng quặn lên. Con tàu thân thương đó đã gần gụi với mình lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.<br /><br />Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, chúng tôi men theo giao thông hào lần về đến ban chỉ huy Lữ Ðoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn anh Giang, On, Sơn anh em chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi rối rít. Chúng tôi được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn 3. Ðầu tiên là đại tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 3, thiếu tá Ðức trưởng ban 3, dại uý Trụ phụ tá ban 3, đại uý Nghĩa sĩ quan liên lạc KQ, trung uý Chính sĩ quan Không trợ Dù, thiếu uý Long phụ tá ban 2. Về phía pháo binh thì có trung tá Châu tiểu đoàn trưởng và đại uý Thương trưởng ban 3 thuộc tiểu đoàn 3 pháo binh Dù. Ðại tá Thọ mừng anh em "mới đến" mỗi người một điếu Havatampa và một ly Hennessy để lấy lại tinh thần. Tôi ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy "ông" nhảy Dù vẫn thản nhiên hút sì-gà Cuba và uống rượu Mỹ như máy! Quả các anh ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng chì thật.<br /><br />Buổi chiều vùng rừng núi trời tối thật nhanh, chúng tôi dùng tạm bữa cơm dã chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù. Tôi được ngủ chung một hầm với anh Nguyễn quốc Trụ, một sĩ quan trẻ xuất thân khóa 20 trường Võ Bị Ðà Lạt. Anh cũng là anh ruột của trung uý Nguyễn hải Hoàn, một hoa tiêu chánh trong phi đoàn tôi. Tin tức chiến sự mỗi ngày một căng thẳng hơn vì đối với cộng sản bắc Việt, sự hiện diện của căn cứ 31 trên hệ thống đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. Vì thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ 31 với ý định đánh bật căn cứ này ra khỏi sinh lộ của chúng.<br /><br />Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay tiếp tế nào vào được vì địch quân luôn di động dàn phòng không của chúng khiến KQVN và HK không phát huy được ưu thế của mình. Mỗi sáng, chỉ có 2 phi tuần F4 đến ném bom vài khu vực khả nghi chung quanh đồi 31 và thỉnh thoảng mới có một đợt B52 rải thảm ì ầm xa xa vọng đến rồi mọi sự lại chìm vào rừng núi trùng điệp. Ngược lại, quân bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù.<br /><br />Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, chúng tôi nhận được lệnh và khởi sự di chuyển ra các hầm cứu thương sát bãi đáp chờ đến trưa đích thân phi đoàn với 3 chiếc H34 sẽ vào tải thương binh Dù đồng thời bốc 2 phi hành đoàn ra. Tôi và anh Bửu cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm trú ẩn. Ðến trưa khi chúng tôi bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc xa xa thì cũng là lúc địch khởi đầu trận "tiền pháo" dồn dập lên đồi 31. Qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện, cách nhau một cái yên ngựa, tôi thây rõ hai chiếc xe tăng T-54 của cộng quân tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc chung quanh nhắm đỉnh đồi chúng tôi mà nhả đạn. Những tia lửa từ nòng súng phụt ra, tôi và anh Bửu thụp đầu xuống cùng nhìn nhau như nhắc nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân "Trời kêu ai nấy dạ!".<br /><br />Ngòai kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội C trên căn cứ 31, với những khẩu pháo đã bị hỏng bộ máy nhắm vì pháo kích của địch, họ phải hạ nòng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào xe tăng địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên đã hạ ngay được 2 chiếc T54. Nhưng để trả giá cho hành động dũng cảm này nhiều binh sĩ Dù đã nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ, trong số này có cả pháo đội trưởng Nguyễn văn Ðương, người đã là niềm hứng khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Chúng tôi vui sướng reo mừng trong hầm bên này. Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau 2 xe tăng khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại bác về đồi chúng tôi mà bắn! Sau vài loạt đạn, một phi tuần 2 chiếc F4 xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội hình địch, và lại phá hủy thêm 2 xe tăng nữa. Trong tiếng bom đạn tơi bời, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H34 đang vần vũ trên cao như lo lắng cho số phận những đồng đội của mình. Cho đến khoảng 5 giờ chiều thì địch tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm gì hơn, tôi và anh Bửu tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm. <br /><br />Về phía KQ, tôi, anh Bửu, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và bị dẫn giải ra bắc Việt chung với tất cả tù binh khác. Không thấy anh Giang và Em đâu. Chúng tôi bắt đầu thăm hỏi các SQ và binh sĩ Dù trên đường đi. Cuối cùng tôi gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi cộng quân kêu các ra đầu hàng. Ðến lần thứ 3 các anh vẫn không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị thương nhẹ nên chúng bắt theo còn anh Giang vì bị thương nặng gãy cả 2 chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần mêvô Em thì bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau đớn Em gục chết ở bên đường.<br /><br /> <br /><br />Thế là 219 ghi thêm vào quân sử của mình một thiệt hại 2 phi hành đoàn trên chiến trường Hạ Lào. Trong đó anh Giang và Em đã vĩnh viễn ở lại trên đồi. Ngọn đồi quyết tử 31. Những người còn lại của 2 phi hành đoàn đó là Bửu, On, Khánh và Sơn thì sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô định, biết còn có ngày về hay không?<br /><br /> <br /><br />Viết để nhớ đến tất cả những chiến sĩ anh hùng đã thành danh hay vô danh, vẫn còn sống hay đã hy sinh cho quê hương đất nước. Sau 31 năm it ra tên tuổi các anh vẫn còn được nhắc đến một lần.<br /><br />Tháng 11 năm 2002<br /><br />Bùi Tá Khánh </span>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-14984784938969216252008-06-20T14:03:00.000-07:002009-06-19T16:09:34.762-07:0019 Tháng 6 năm 2008<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgFMXu-22Bo4Tz0KAmfJhR4ceCPRqsoZ79z05utJuuEPxm97-9Xky7I54_Ic3abutYj98_q0qSU24Af75UMfhRXfJWAgSNahyphenhyphenVM7rAPoL1Y9EPdw_JbRDIzoOGyREtZlfXq5K16VS0Vx94/s1600-h/IMG_2505.JPG"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgFMXu-22Bo4Tz0KAmfJhR4ceCPRqsoZ79z05utJuuEPxm97-9Xky7I54_Ic3abutYj98_q0qSU24Af75UMfhRXfJWAgSNahyphenhyphenVM7rAPoL1Y9EPdw_JbRDIzoOGyREtZlfXq5K16VS0Vx94/s400/IMG_2505.JPG" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5214072754637627650" /></a><br /><br /><strong>Ngày 19/06/2008 - Phan nhật Nam <br /><br />Cờ bay!<br />Cờ bay!<br /><br />Giữa vũng lửa<br /><br />Trầm trầm dân, lính nước mắt ứa<br /><br />Một lần Cờ bay Vàng thành xưa<br /><br />Bao phần máu xương Người Việt đổ...<br /><br />Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là chung của tất cả Chúng Ta - Dân Tộc nơi Phương Nam dựng phận nghiệp Khổ Đau nhưng Siêu Việt. Cờ Vàng Ba Sọc đỏ là mối biễu tượng thuần thành, chính thống nhất. Bởi Cờ đã dựng lên uy nghi suốt giải quê hương từ Ải Nam Quan, miền núi cực bắc Đồng Đăng, Cao Bằng, Lạng Sơn, đến Mũi Cà Mâu, vùng đầm lầy Quản Long, An Xuyên, cuối nguồn Cửu Long, Sông Cái.<br /><br />Dẫu Cờ mất đi quyền hiện diện chính trị.<br /><br />Nhưng Cờ vẫn linh thiêng vĩnh hằng tồn tại nơi trái tim, và hơi thở chúng ta.<br /><br />Cờ bay không ngừng như máu chảy tự thân.<br /><br />Lá Cờ Vàng - Nền Cộng Hòa - Tổ Quốc Việt Nam là Một.<br /><br />Ngày 26 Tháng Mười, Năm 1955, nền Cộng Hòa khai sinh ở Thủ Đô Sài Gòn với danh hiệu chính thức: Việt Nam Cộng Hòa thay thế danh hiệu Quốc Gia Việt Nam, thể chế chính trị thành hình từ 8 tháng Ba, 1949, ngày Hiệp Ước Elysée ký kết giữa Tổng Thống Cọng Hòa Pháp Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại chấm dứt 65 năm thuộc Pháp (1884-1949). Chức vụ nguyên thủ quốc gia, "Tổng Thống thay thế danh xưng Quốc Trưởng". Ngày 8 tháng 3, 1956, Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa chính thức công bố Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là Quốc Kỳ, Quốc Huy của nước là hình Cây Trúc biễu tượng Tinh Thần Chính Nhân, Đại Nghĩa của Dân Tộc Việt Nam. Chúng ta hôm nay cần nhắc lại những sự kiện, thời điểm lịch sử kể trên để cùng nhau xác chứng lại một điều hiễn nhiên: Lá Cờ Vàng, danh hiệu Việt Nam Cộng Hòa là một Thực Thể Chính Trị- Biễu Tượng Quốc Gia- Lý Chính Nghĩa- Sức Chiến Đấu của vạn, triệu Người Việt dài theo cùng Thế Kỷ 20 và trước đây, lẫn mai hậu. Dẫu hôm nay có những âm mưu đê tiện, thâm độc đòi xoá bỏ đi biễu tượng cao quý nhiệm mầu trên vì nại cớ chúng đã có liên hệ với những nhân sự, vụ việc gây nhiều lầm lỡ của giai đoạn từ sau cuộc đại chiến thế giới lần hai (1945) đến ngày thiên thu uất hận 30 tháng 4, 1975. Chúng ta phải vô cùng sáng suốt cảnh giác trước mưu hiễm của kẻ nghịch cùng đồng lõa và kiên trì giữ vững niềm tin, sức chiến đấu: Bởi máu của anh em ta, của cả dân tộc khổ nạn đã tô thắm thêm ba đỏ vạch sắc son nầy. Và Cộng Hòa không chỉ là danh xưng về thể chế chính trị, nhưng là mục đích tối thượng của toàn khối Người Việt luôn kiên tâm thực hiện Sống xứng đáng Giá Tri. Con Người, giữ gìn bền bỉ Phẩm Tính Dân Tộc. Nền Cộng Hòa, Cờ Tam Tài "Xanh-Trắng-Ðỏ" luôn là biễu tượng huy hoàng, vĩ đại của Dân Tộc Pháp, và cũng của toàn nhân loại về nỗ lực thực hiện ý niệm "Cộng Hòa-Tự Do Dân Chủ", dẫu Cách Mạng 1789 phải trả bằng giá máu kinh hoàng của bao người vô tội do tay những kẻ khủng bố tàn nhẫn. Mao Trạch Đông đã không tùy nghi vô cớ liên kết cách mạng vô sản với cuộc Chiến Tranh Nha Phiến 1884 giữa Triều Đình nhà Thanh với những đại cường Tây Phương trong buổi lễ vĩ đại ngày 1 tháng 10, 1949 nơi Quảng Trường Thiên An Môn mừng lần thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân - Bởi đấy là Truyền Thống chiến đấu giữ nước của Dân Tộc Trung Hoa. Chúng ta không thể tạo dựng nên điều vô cớ, bởi lá Cờ Vàng quả thật đã thấm đẫm lượng máu vô hạn của lớp lớp Người Việt quyết tử để Dân Tộc tồn sinh. Giòng máu oanh liệt của nhị vị Trưng Nữ Vương hòa xuống Hát Giang năm 43 lúc nước vừa mới tượng hình được tiếp nối với lượng sóng sông Bạch Đằng của kỳ giữ nước quang vinh, Thế Kỷ 13 quân Nhà Trần đánh tan ba lần đạo binh bách thắng Nguyên Mông. Từ bậc quân vương, đến người lính đầu bạc, cũng như ngựa đá phải chồn chân, hãn huyết xông lên trận tiền giữ nước. Đấy cũng là giòng máu kiên trung, hiến thân cho mệnh nước hằng tuôn chảy không ngừng khi Chiến Hạm Nhựt Tảo-Hải Quân 10 chìm xuống, hòa lẫn màu biển Hoàng Sa ngày 19 tháng 1, 1974, cùng thân xác Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà, và những Người Lính Hải Quân Quân Lực Cộng Hòa giữ gìn trời, biển phương Nam. Thế nên, Cờ không chỉ giới hạn là biễu hiện của riêng những chế độ cầm quyền, với Quốc Gia Việt Nam hay hai nền Cộng Hòa. Và Cộng Hòa là ý niệm tối thượng của cuộc sống- chiến đấu bất tận trên vùng đất lửa phương Nam. Dẫu sống vô cùng nguy biến đau thương như hằng hằng những đoàn người chạy loạn cộng sản-Từ cuộc di cư vĩ đại năm 1954 rời bỏ Miền Bắc; lần chạy nạn Tổng Công Kích Mậu Thân 1968; cảnh Mùa Hè Đỏ Lửa suốt ba vùng đất nước năm 1972, và lần oan khốc uất hận khi mất Cao Nguyên từ ngày 10 tháng 3, 1975 để đến hôm nay hiện thực với hai triệu người có mặt ở hải ngoại ố Những NGƯỜI VIỆT TY. NẠN CỘNG SẢN ĐỂ THỰC HIỆN Ý NIỆM CỘNG HÒA. Vậy, chúng ta phải khẳng định lại thêm một lần: Lá Cờ Vàng - Danh Hiệu Cộng Hòa là sức mạnh chuyển giòng đấu tranh xuyên suốt lịch sử từ những lần vị quốc vong thân sáng ngời trung liệt của Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương khi thành mất; của Trương Công Định, liệt sĩ Vàm Láng, Gò Công; của Nguyễn Trung Trực với chiến công vang động giòng Vàm Cỏ, Long An: "Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa. Kiếm bạc Kiên Giang khốc quỷ thần", cho đến lần Cờ lên trên Kỳ Đài Cố Đô Huế, sáng Mùa Xuân Mậu Thân, 24 tháng Hai, 1968..<br /><br />Quân dân ta nên một lần bật khóc<br /><br />Khi lá Cờ Vàng Ba Sọc<br /><br />Lừng lững lên cao<br /><br />Giữa mờ sương xứ Huế sáng Xuân nào!<br /><br />Danh hiệu Cộng Hòa bao gồm trong lời hô uy dũng của mười ba Liệt Sĩ Quốc Dân Đảng "Việt Nam Độc Lập Muôn Năm" nơi Yên Bái, sáng sông núi gờn gợn đau thắt, 17 tháng 6, 1930, không khác ý niệm quyết tử "Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm" của trung đội lính Nhảy Dù do Thiếu Úy Huỳnh Văn Thái chỉ huy, đã chọn giây phút báo đền ân nghĩa quê hương với chính xác thân mình nỗ tung bởi trái lựu cuối cùng, buổi sáng 30 tháng Tư, 1975 nơi bùng binh Ngã Sáu, Chợ Lớn. Danh hiệu Cộng Hòa linh thiêng kia đã bừng lên soi rạng khoảng trời đất u tối sáng 29 tháng 4, 1975 khi chiếc Hỏa Long C119 của Trung Úy Nguyễn Văn Thành bốc cháy trên không gian Tân Sơn Nhất, Gia Định. Và giá trị Cộng Hòa mải mải tồn tại trong thanh âm quyết liệt của Hồ Ngọc Cẩn, Trần Văn Bá khi đối diện với nòng súng của trung đội hành hình. Chúng ta hôm nay cũng tương tự tình cảnh của những người Việt lưu vong đầu thế kỷ ở Sa Khôn, Thái Lan, với tất lòng đau xót như đã một lần được Tú Tài Đặng Thúc Hứa, đồng chí của nhị vị tiền bối Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh diễn dạt khi nhớ về quê nhà đang trong cơn điêu linh nhục thãm:<br /><br />Vùng Quê Hải, gió tanh mưa máu, án ba đào vì tình thế xui nên.<br /><br />Cõi Viêm Bang, núi thịt cồn xương, nỗi bi thảm xưa nay chưa có.<br /><br />Ngoài ngàn dặm trông về cố quốc,<br /><br />Non sầu bể thảm, quặn ruột gan chín khúc tơ vò.<br /><br />Cuộc trăm năm tưởng tới đồng tâm,<br /><br />Cỏ úa hoa dàu, dẫu sắt đá cũng hai hàng lệ nhỏ.<br /><br />Nỗi Đau cào xé nầy luôn bừng bừng cùng mối Ước Nguyện sắc son - Lần dựng lên trong nắng Miền Nam mầu uy nghi rực rỡ Cờ Vàng, và câu hát đã một lần vang động núi sông lẫm liệt cảm động ánh sáng vĩnh cửu Cộng Hòa.<br /><br />Cờ bay! Cờ bay!<br /><br />Trên thành phố thân yêu<br /><br />Vừa chiếm lại đêm qua bằng máu!! CHÚNG TA PHẢI HÁT LẠI THÊM MỘT LẦN CÂU HÁT BI HÙNG NẦY TRÊN TOÀN CÕI QUÊ HƯƠNG<br /><br />Viết để nhắn nhở, vững tin Nghĩa Lớn - Việt Nam Cộng Hòa<br /><br />26 Tháng Mười, 1955 — 26 Tháng Mười, 2002. Phan nhật Nam</strong>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-81128305101260089382008-06-18T09:39:00.000-07:002009-06-19T16:10:58.790-07:00Người Lính QLVNCH<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgi2gDqTB4qG5JagvSVu8n9lwbrlvM0Xp6Aha6Wkeh8N9jNI2sKzXQJmPhnf8NrvU9UPdCiac4UnR5vpVu9WqKFcyS7ot3AvYZUcSVMyUELhgytVNBML0Pd0D7pADxBLCD7P5blMwfYo_A/s1600-h/bugleSIXE7.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgi2gDqTB4qG5JagvSVu8n9lwbrlvM0Xp6Aha6Wkeh8N9jNI2sKzXQJmPhnf8NrvU9UPdCiac4UnR5vpVu9WqKFcyS7ot3AvYZUcSVMyUELhgytVNBML0Pd0D7pADxBLCD7P5blMwfYo_A/s400/bugleSIXE7.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213262315668468994" /></a><br /><br /><strong>NGƯỜI LÍNH QLVNCH <br /><br />" ĐÂY LÀ TIẾNG NÓI NƯỚC VIỆT NAM <br />PHÁT THANH TỪ THỦ ĐÔ SAIGÒN ..." <br />Cho đến nay tiếng nói ấy vẫn còn <br />Vang vọng mãi trong trái tim Ngưòi Lính . <br /><br />Là hình ảnh của một thời ổn định <br />Là tiền đồn của Thế Giới Tự Do <br />Của miền Nam nước Việt rất ấm no <br />Là thành luỹ mang hồn thiêng sông núi . <br /><br />Người Lính trẻ đã một thời giong ruổi <br />Đem tình người, tình lính trấn biên cương <br />Vẫn một lòng chung thủy với quê hương <br />Dù oan nghiệt rẽ đời qua trăm hướng . <br /><br />Người Lính chúng tôi tuy không Sinh Vi Tướng <br />Cũng hiên ngang chấp nhận Tử Vi Thần <br />Trọn một lòng chỉ vì Nước ,vì Dân <br />Dâng hiến cả đời mình cho Tổ Quốc . <br /><br />Từ Quảng Trị rét căm mùa gió bấc <br />Đến Cà Mau mưa lũ ngập đồng sâu <br />Vết giày Saut lội bất cứ nơi đâu <br />Để mang lại Tin Yêu và Lẽ Sống . <br /><br />Người Lính chúng tôi mang trái tim hào phóng <br />Của tuổi đời đẹp nhất : lúc đôi mươi <br />Làm nguồn vui nơi tuyến đầu lửa bỏng <br />Trong gian truân vẫng nồng ấm nụ cười . <br /><br />Dù đôi lúc có hoang mang , phẫn nộ <br />Hay chán chường vì dấu ấn chiến tranh <br />Nhưng nỗi buồn cũng tan biến rất nhanh <br />Khi đối diện với kẻ thù ngoài mặt trận . <br /><br />Rồi cũng đến lúc chào thua số phận <br />Khi tàn vong đành Nước mất , Nhà tan <br />Vì thế cùng , lực tận , chỉ thở than : <br />Thân nhược tiểu, xót thầm , ôi ngang trái ! <br /><br />Người Lính chúng tôi không hề chiến bại ! <br />Chỉ chào thua định mệnh đã an bài <br />Bởi cô thế đành nương thân hải ngoại <br />Chờ bình minh quang phục của ngày mai . <br /><br />HUY VĂN</strong>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-12296855629057126762008-06-17T15:18:00.000-07:002009-06-19T16:10:21.985-07:00QLVNCH 30 năm nhìn lại<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEioJ6qwtcjR_jo2tgDAsYSGUo74_MdtiplLfnVgUdrL8FZbvjsS0bQiDfwEn6accpMkxel5Xq0zazHhonmFUfn3DqBbzXzYX4TVqDjFREWGiXRnxp1xqxUyTR-XOwusa5oAINcIxzILkZE/s1600-h/xuanloc_battle4.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEioJ6qwtcjR_jo2tgDAsYSGUo74_MdtiplLfnVgUdrL8FZbvjsS0bQiDfwEn6accpMkxel5Xq0zazHhonmFUfn3DqBbzXzYX4TVqDjFREWGiXRnxp1xqxUyTR-XOwusa5oAINcIxzILkZE/s400/xuanloc_battle4.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213262665103722002" /></a><br /><br /><strong>Thành Quả và Sai Lầm: Nhìn Lại Quân Lực VNCH 30 Năm Sau Cuộc Chiến<br /><br />Nguyễn Kỳ Phong<br /><br />Nguyễn Kỳ Phong, sanh năm 1956, tị nạn cộng sản ở Mỹ từ năm 1975, là tác gỉa hai dịch thuật, Hành Quân Lam Sơn 719 (nguyên tác Anh ngữ, Operation Lamson 719, của thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh), và Những Ngày Cuối của Việt Nam Cộng Hòa (nguyên tác, The Final Collapse, của đại tướng Cao Văn Viên). Đã xuất bản một tác phẩm nghiên cứu về quân sử, Người Mỹ và Chiến Tranh Việt Nam. Một tác phẩm mới với tựa là, Vũng Lầy của Tòa Bạch ốc, sẽ được Tủ Sách Tiếng Quê Hương mắt vào trung tuần tháng 4 năm nay.<br />Nhìn lại Quân Lực VNCH 30 năm sau cuộc chiến<br />Ngày 30/03/2006 - Nguyễn Kỳ Phong (1) <br /><br />Lần đầu tiên, hơn ba mươi năm sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, một trung tâm nghiên cứu đã tổ chức hội thảo về vai trò của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) trong cuộc chiến. Nhiều trung tâm nghiên cứu và đại học ở Hoa Kỳ trong quá khứ đã tổ chức nhiều hội thảo về chiến tranh Việt Nam, nhưng chỉ về chiến tranh Việt Nam như là chủ đề chính, chứ không bàn sâu về vai trò của QLVNCH. Với đề tài ARVN: Reflections and Reassessments After 30 Years (QLVNCH: Hồi Tưởng và Tái Thẩm Định Sau 30 năm), The Vietnam Center (Trung Tâm nghiên cứu về Việt Nam) của đại học Texas Tech tổ chức hai ngày hội thảo cho chủ đề riêng biệt về vai trò của QLVN<br /><br />Theo những gì được biết, ý kiến tổ chức buổi hội thảo có chủ đề dành riêng cho QLVNCH đến từ ông Nguyễn Xuân Phong (2), một viên chức của trung tâm. Theo ông Phong nhận định, nói về chiến tranh Việt nam mà không nhắc đến vai trò của QLVNCH thì tất cả những bàn luận trở thành vô nghĩa. Và trung tâm hoàn toàn đồng ý về nhận xét của ông Phong. Cuộc hội thảo là kết quả của nhận định đó.<br /><br />Trong hai ngày hội thảo, có tất cả 29 diễn giả gồm 17 người Mỹ và 12 Việt. Đề tài thảo luận rất bao quát: từ cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh qua Hạ Lào vào tháng 2/1971, cho đến trận phản công của QLVNCH trong trận “Mùa Hè đỏ Lửa” vào năm 1972; từ trận đánh giữa tiểu đoàn 4 Thuỷ quân Lục chiến (TQLC) và hai trung đoàn Việt Cộng ở Bình Giã năm 1964, cho đến trận hải chiến giữa Hải Quân VNCH và Trung Cộng ở quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Một vài đề tài hơi đi xa chủ đề (Thiếu Thốn; Cuộc Đời Dang Dở; Chống Mỹ: Những Phong Trào Biểu Tình của Thương Phế Binh, 1970-1971; hay là, TQLC Hoa Kỳ và Những Cố Gắng Trong Kế Hoạch Chống Du Kích và Bình Định ở Việt Nam). <br /><br />Tựu trung, tất cả những bài thuyết trình đều đi sát đề tài và thu hút được sự chú ý của thính giả. Đặc sắc nhất là khi anh Nguyễn Văn Kiệt (cựu hạ sĩ quan của Liên Đoàn Người Nhái) kể lại chuyện anh và một sĩ quan lực lượng đặc biệt Hải Quân Hoa Kỳ (SEALs) đi vào lòng đất địch để cứu một Trung tá phi công bị bắn rơi ở trên bờ sông Thạch Hãn. Trước chuyến giải cứu thành công của anh Kiệt, Hoa Kỳ đã bị thiệt hại 6 phi công và 9 phi cơ để cứu người Trung tá này. Dù với khả năng Anh ngữ trung bình, anh Kiệt đã làm cho thính giả vổ tay vang vội vì sự chân thật trong câu chuyện anh kể. Quan khách đã đứng lên vổ tay nhiệt liệt khi anh kết thúc câu chuyện thật lý thú, đầy hồi hộp đó. Chuyện giải cứu này trước đây đã được viết ra ba quyển sách, và đã làm thành phim với tựa đề The Rescue of Bat-21 (Cuộc Giải Cứu - phi công có bí hiệu - Bat-21).<br /><br />Phía người Việt tham dự cuộc hội thảo có nhiều thành phần khác nhau: với những viên chức chánh phủ như cựu Đại sứ Bùi Diễm, ông Nguyễn Ngọc Bích; phía quân nhân có cựu Trung tướng Lữ Lan, Đại tá Mai Viết Triết (một trong những sĩ quan đầu tiên của Liên Đoàn 77 Quan Sát Địa Hình, tiền thân của Lực Lượng Đặc Biệt và Phòng 7 về sau), Thiếu tá TQLC Trần Ngọc Toàn, một sĩ quan đã tham dự trận Bình Giả năm 1964), Hải quân Đại tá Đỗ Kiểm,... và một số cựu sĩ quan khác của QLVNCH. Tương tự, phía dân sự cũng có một tập hợp của nhiều thành phần và kiến thức chuyên môn khác biệt - từ một dân sự chưa một ngày ăn cơm cháy nhà binh như tác giả bài viết này, cho đến những sinh viên ban Tiến sĩ thật trẻ, như hai cô Julie Phạm (29 tuổi, đại học Berkeley), Nguyễn T. Liên-Hằng (34 tuổi, đại học Harvard) hoặc hai thanh niên tuổi dưới ba mươi, Hoàng Tuấn (đại học Notre Dame) và Nguyễn Minh Triết (đại học Ottawa) và ông Nguyễn Văn Tín (em trai cố thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu) tuổi đã ngoài 60.<br /><br />Phía Hoa Kỳ, phái đoàn tham dự cũng có một sắc thái tương tự - dân sự, hàn lâm, và cựu chiến sĩ. Người mở đầu cuộc hội thảo là Tiến sĩ Lewis Sorley, một cựu sĩ quan đã tham dự chiến tranh Việt Nam từ ngày đầu cuộc chiến. Sau khi trở lại Mỹ, Sorley chuyển sang làm việc cho CIA và là một nhân viên cao cấp của cơ quan tình báo này. Sorley, lúc còn sĩ quan cấp tá, là bạn cùng khóa ở trường Tham Mưu Trung Cấp Lục Quân Hoa Kỳ (Fort Leavenworth, Kansas) với Đại tá Hà Mai Việt. Ra trường võ bị West Point năm 1965, bạn cùng khóa với ông là những Đại tướng như Norman Schwarzkopf, John Foss, John Shaud, hay Trung tướng Dave Palmer, một cố vấn cho trường Võ bị Đà Lạt trong đầu thập niên 1970. Sorley còn là tác giả của The Abrams Tapes, một tác phẩm công phu viết về cơ cấu quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam. Những người khác như Trung tá James Willbanks, một sĩ quan đã tử thủ trận An Lộc chung với sư đoàn 5 Bộ Binh trong trận Mùa Hè Đỏ Lửa, và hiện nay là trưởng khoa quân sử của trường Tham Mưu Trung Cấp Lục Quân Hoa Kỳ; Đại tá Darrell Whitcomb, một trong những phi công bay yểm trợ và chỉ điểm cho cuộc giải cứu Bat-21; một sĩ quan cố vấn khác, ông Bill Laurie, đã làm cho thính giả Việt Nam thích thú khi anh ta tuyên bố - bằng tiếng Việt, giọng miền Nam - là anh ta đã ngồi nhậu với lính VNCH ở rất nhiều quán cóc trên bốn vùng chiến thuật! Ngoài ra, phía dân sự có nhiều người trong giới hàn lâm tham dự: một giáo sư chưa đầy 34 tuổi, tốt nghiệp Tiến sĩ từ đại học Harvard và Cambridge (London). Anh ta lên viết về cơ cấu của Kế Hoạch Phụng Hoàng. Hiện nay anh là giáo sư thực thụ của trường tham mưu trung cấp TQLC Hoa Kỳ. <br /><br />Một Tiến sĩ khác, Anrew Wiest, cũng trong khoảng tuổi hơn ba mươi, thuyết trình về hai khuôn mặt trái ngược của hai quân nhân VNCH trong cuộc chiến. Một người hùng là Trung tá Trần Ngọc Huệ, Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 2/Trung đoàn 2/Sư đoàn 1 Bộ Binh, người đã dẫn tiểu đoàn nhảy trực thăng vào chiếm Tchepone ở Hạ Lào năm 1971, rồi từ đó phải đánh bằng đường bộ để triệt thoái ngược về biên giới Việt Nam với tiểu đoàn chỉ còn lại 26 người. Người sĩ quan kia, Trung tá Phạm Văn Đỉnh, người đã đem nguyên Trung đoàn 56 (Sư doàn 3 Bộ Binh) đầu hàng cộng sản Bắc Việt vào trận Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, khi Trung đoàn 56 bị ba Sư đoàn CSNV bao vây, rồi sau đó lên đài phát thanh của cộng sản kêu gọi những quân nhân ở những trung đoàn còn lại đầu hàng. Anrew Wiest hiện nay là Trưởng một Trung tâm Nghiên cứu về Chiến tranh Việt Nam ở đại học Mississippi. Chúng ta cũng thể không nhắc đến ông giám đốc Trung Tâm Việt Nam của đại học Texas Tech, người đã đứng ra tổ chức cuộc hội thảo: Tiến sĩ James R. Reckner là cựu sĩ quan cố vấn cho một giang đoàn xung phong của Hải Quân Việt Nam (Giang Đoàn 26 Xung Phong) hoạt động dọc theo Kinh Vĩnh Tế. Rất lý thú khi ngồi nghe ông kể lại cuộc đời chinh chiến của ông trên những kinh rạch, sông ngòi, ở miền Nam, hay xa hơn về phía biên giới Miên như Tân Châu, Hồng Ngự ở Châu Đốc.<br /><br />Trong chuyến đi tham dự hội thảo, tham dự viên được mời tận vào phòng sách tham khảo và nghiên cứu của trung tâm. Và phải thành thật mà nói, đây là một kho tàng cho những người nghiên cứu về Việt Nam -không nhất thiết chỉ về quân sự hay quân sử, mà tất cả mọi phương viện về Việt Nam như một quốc gia. Nguồn gốc trung tâm bắt đầu vào năm vào năm 1989, khi đại tướng Westmoreland (tư lệnh MACV, rồi sau đó tư lệnh Lục Quân), Đô đốc Elmo Zumwalt (Tư lệnh Hải Quân ở Việt Nam, rồi Tư lệnh Hải Quân Hoa Kỳ), Thứ trưởng William Bundy, Đại sứ Bùi Diễm, cùng Tiến sĩ Reckner ngồi xuống quyết định xây dựng một trung tâm tàng trữ thư liệu về Việt Nam. Hơn hai năm sau, trung tâm được sự cộng tác quan trọng của tác giả Douglas Pike (3), khi ông này dọn nguyên thư viện cá nhân của ông từ viện đại học Berkeley ở California về. Ông Pike là một học giả về Việt Nam và chiến tranh Việt Nam, thư viện riêng của ông gồm có hơn bảy triệu trang tài liệu; 15 ngàn quyển sách; và ba ngàn phim ảnh đủ loại. <br /><br />Phải nói đây là một thư viện nghiên cứu thứ thiệt! Từ những bộ sách như Công Báo Việt Nam (do Việt Tấn Xã in, tiếng nói chánh thức của chính phủ VNCH) đến những bộ sách về liên hệ Việt-Pháp của thập niên 1800, cho đến những báo cáo tối mật đã được giải mật của CIA, bộ Ngoại Giao, cho đến những tường trình về quân sự, hồ sơ về trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức,... tất cả thật chi tiết, tất cả có thể cho người đọc một quá khứ thật rõ ràng về VNCH nói riêng và về Viêt Nam nói chung. Người viết bài này có dịp cầm trên tay một tài liệu nói về những khóa đầu tiên của trường sĩ quan Thủ Đức. Trong đó nhiều chi tiết thật lý thú. Thí dụ, nhìn vào Khóa 1 Nam Định, chúng ta thấy tên người sĩ quan thủ khoa là Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh; khóa có 255 khóa sinh, nhưng chỉ có 218 người ra trường với cấp bậc Thiếu úy, số còn lại là Chuẩn úy vì điểm đậu dưới tiêu chuẩn. Ngoài những chi tiết đó, chúng ta còn biết các sĩ quan có tên ra trường hạng thứ mấy trong khóa đó. Chẳng hạng như Chuẩn tướng không quân Đặng Đình Linh đậu hạng 208 (trên 218 sinh viên); Đại tá cựu Thẩm quán quân sự Nguyễn Cao Quyền hạng 19; Trung tướng TQLC Lê Nguyên Khang hạng 75; Phan Phụng Tiên hạng 31... <br /><br />Trong khi đó, Khóa 1 Thủ Đức có tất cả 311 sinh viên thụ huấn, 278 tốt nghiệp Thiếu úy; 24 tốt nghiệp chuẩn úy; và 9 ra trường với cấp bậc Trung sĩ vì điểm quá thấp. Nhìn sơ qua, thấy Thủ khoa là cựu Đại tá Cảnh sát Phạm Kim Quy, Trung tướng Nguyễn Đức Thắng ra trường hạng 5 và chọn binh chủng Pháo Binh, tướng Đồng Văn Khuyên là Á khoa của khóa 1 Thủ Đức. Và những khóa khác lại cho nhiều lý thú hơn: khóa 3 có Đại tá Hoàng Đức Ninh (anh của ông Hoàng Đức Nhã) ra trường hạng 208 trên 712 sinh viên; Tướng Nguyễn Khoa Nam hạng 83; tác giả viết sử Phạm Kim Vinh hạng 256. Ở Khóa 5 thì có tác giả Đại tá Phạm Bá Hoa, hạng 648 trên 879; đại tá TQLC Cổ Tấn Tinh Châu, hạng 381; và Đại tá Hà Mai Việt, hạng 86. ... Đại khái, tài liệu ghi lại những chi tiết như vậy. Người viết bài - một người tự thú nhận là mê sách - thật là hăm hở, thật là thích thú với hàng trăm kệ sách đầy tài liệu trước mặt mình. Sự thích thú của của người viết đã làm cho ông Reckner nói đùa với hai phụ tá là Tiến sĩ Steve Maxner và anh Trần Công Khanh là, “Nên chú ý tên này, nó lục loại nhiều quá. Xét người nó trước khi ra về. Nó có thể ‘chôm’ những tài liệu quí giá của chúng ta!”. Thật Một một cuộc thăm viếng không uổng công.<br /><br />Trung tâm Việt Nam của đại học Texas Tech, trong quá khứ đã bị nhiều phản đối, chỉ trích và phê bình có khuynh hướng thân cộng. Nhất là sau khi họ cho xuất bản quyển Hồi ký của bác sĩ cộng sản Đặng Thùy Trâm. Dĩ nhiên chúng ta thấy tác phẩm đó có một cái nhìn cá nhân rất lệch lạc, đầy truyên truyền của một bác sĩ đã bị nhồi sọ từ lúc thiếu thời. Cũng như trung tâm đã thường liên lạc và hướng dẫn những phái đoàn viên chức cao cấp của cộng sản Việt Nam qua thăm viếng, như Nguyễn Mạnh Cầm, Trần Bạch Đằng, tướng Nguyễn Đình Ước, Phan Huy Lê, Lê Văn Bằng. Nhưng theo giám đốc Reckner, trung tâm của ông đã bị mọi bên chỉ trích: phía phản chiến, thiên tả, thì nói ông quá thân thiện với các quân nhân VNCH, thiên vị cho phía miền Nam; trong khi một vài chiến sĩ VNCH và Hoa Kỳ thì đặt vấn đề tại sao trung tâm lại thân thiện với nhiều viên chức cộng sản! Câu trả lời của trung tâm - cũng như của chính Tiến sĩ Reckner - trung tâm chỉ là một nơi dự trữ những di tích, thư liệu, tang chứng về Việt Nam, về VNCH và CSVN. Trung tâm chỉ là một trung gian chứ không phải là nơi thẩm định những tác động hay hậu quả chính trị, hậu quả cuộc chiến đã xảy ra; trung tâm không phê phán mà chỉ trưng bày những sự kiện. Rồi từ những sự kiện và thư liệu đó, các nhà nghiên cứu, học giả, độc giả, tự mình đi đến những kết luận riêng cho chính họ. Với một nhận xét như vậy, người viết bài này không có gì để phản đối.<br /><br />________________________________________<br />1. Tác giả Nguyễn Kỳ Phong, sanh năm 1956, tị nạn cộng sản ở Mỹ từ năm 1975, là dịch giả hai quyển Hành Quân Lam Sơn 719 (nguyên tác Anh Ngữ, Operation Lamson 719, của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh), và Những Ngày Cuối của Việt Nam Cộng Hòa (nguyên tác, The Final Collapse, của Đại tướng Cao Văn Viên). Đã xuất bản một tác phẩm nghiên cứu về quân sử, Người Mỹ và Chiến Tranh Việt Nam. Một tác phẩm mới với tựa là Vũng Lầy của Tòa Bạch Ốc, sẽ ra mắt vào tháng 4 năm 2006.<br /><br />2. Cựu Đại sứ Nguyễn Xuân Phong là thành viên của nội các VNCH trong những năm 1965-75, và từng là Tổng trưởng Lao động và là Phó trưởng phái đoàn và quyền Trưởng phái đoàn VNCH tại hoà đàm Paris. Ông trở lại Việt Nam 5 ngày trước khi Sài Gòn rơi vào tay Hà Nội vào tháng 4/1975. Tại Paris ông là Quốc vụ khanh đặc trách đàm phán và là Trưởng phái đoàn VNCH tại Hội nghị La Celle Saint Cloud. Sau tháng 4/1975, ông bị đưa đi tù cải tạo 5 năm ở miền Bắc. Cựu Đại sứ Phong sang Mỹ theo lời mời vào năm 2000. Từ 2002 và sau đó ông tham dự hội nghị về Việt Nam trong Dự án Việt Nam tại Đại học Texas Tech (Saving Vietnam, Kippra D. Hopper). Hiện nay Cựu Đại sứ Nguyễn Xuân Phong là nhà nghiên cứu tại Đại học Texas Tech. Ông là tác giả Hope and Vanquished Reality, Xlibris, 2002<br /><br />3. Giáo sư Douglas Eugene Pike (27/7/1924-13/5/2002) là học giả nổi tiếng đã viết rất nhiều về chủ thuyết, chiến lược và chiến thuật của cộng sản tại Việt Nam. Sau một thời gian là Giám đống Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam tại Đại học California tại Berkey (1982-1996), ông đến Trung Tâm Việt Nam (Vietnam Center) Đại học Texas Tech vào năm 1997 với vai trò Phó Giám đốc Nghiên cứu. Tháng 11, 2001 giáo sư Pike bị tai biến mạch não, ngưng làm việc và qua đời ngày 13/5/2002. Giáo sư Pike là tác giả 6 quyển sách, biên tập cho 24 quyển sách khác, viết và trình bày rất nhiều tài liệu tại các hội nghị về Đông Dương và Đông Nam châu Á.<br /><br />Giáo sư Pike đem đến cho Trung Tâm Việt Nam hàng triệu trang tin tức trên báo, tài liệu, ngay cả truyền đơn của CSVN và những tư liệu khác về chiến tranh Việt Nam. Theo New York Times, năm 1970 giáo sư Pike ấn hành một chuyên khảo xác minh quân đội nhân dân Việt nam đã thảm sát dân chúng tại Huế thế nào trong trận Tết Mậu Thân. Chuyên khảo này của giáo sư Pike đã khiến giới phản chiến phản đối và tấn công ông dữ dội. Douglas Pike không phải là người hoan hô miền Nam Việt Nam như nhiều người tưởng, New York Times viết, ông nghiêm khắc phê bình sự yếu kém của VNCH trong tổ chức so với kẻ địch CS miền Bắc trong thời chiến.<br /><br /> <br /> </strong>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-73237640638666736742008-06-17T15:05:00.001-07:002009-06-19T16:07:40.728-07:00Ngày Quân Lực 19.6 / Vinh Danh QLVNCH<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiMtOVczI2GU33HwdUwW5jJXwikqUchdLP-w6_wu8kViV697BBN5YAyrjujPj0bg5PZA_oJmJSpEJunDYnE6yPodtI9-vtBpFU9b7xdMkqVg50-SJXx59q6MOl7NTVhuGvurj63GawzWiA/s1600-h/anloc_pic4.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiMtOVczI2GU33HwdUwW5jJXwikqUchdLP-w6_wu8kViV697BBN5YAyrjujPj0bg5PZA_oJmJSpEJunDYnE6yPodtI9-vtBpFU9b7xdMkqVg50-SJXx59q6MOl7NTVhuGvurj63GawzWiA/s400/anloc_pic4.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213263005652783858" /></a><br /><br /><strong>Ngày Quân Lực, Vinh danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà<br />Friday, June 13, 2008 <br /> Vann Phan<br /><br />Lời Tác Giả: Bài viết sau đây có mục đích làm sáng tỏ chính nghĩa của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong suốt giai đoạn lịch sử bi tráng vừa qua của cuộc Chiến Tranh Việt Nam, khẳng định rằng chế độ quân nhân tại Việt Nam Cộng Hòa là nhu cầu tất yếu của lịch sử, là lẽ sống còn của một đất nước đang đấu tranh cho sự sống còn của mình và chỉ là một hiện tượng tạm thời chứ không mang tính lâu dài. Và dĩ nhiên là chế độ quân nhân cai trị tại miền Nam Việt Nam không hề là chế độ quân trị (military rule) hay chế độ quân phiệt (militarism).<br /><br />Có thể nói rằng, so sánh với các quân đội khác trên toàn thế giới thời cận đại, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, trong gần hết thời gian có cuộc Chiến Tranh Việt Nam (1960-1975), là lực lượng quân sự duy nhất mang trên vai hai trọng trách cùng một lúc: bảo vệ an ninh quốc gia và quản trị hành chánh đất nước.<br /><br />Việc thực hiện cùng một lúc hai nhiệm vụ nặng nề này, tức là việc các thành viên thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vừa đánh giặc vừa trị nước, có vẻ như đã đặt chế độ quân nhân (military regime) tại miền Nam Việt Nam vào vị thế của những chế độ quân phiệt (militarism, militaristic regime) cùng thời hay sau này trên khắp thế giới, đặc biệt là tại những quốc gia kém mở mang ở Nam Mỹ (Argentina [Á Căn Ðình], Brazil [Ba Tây], Chile [Chí Lợi], El Salvadore, Haiti, Nicaragua, Panama, Peru...), Á Châu (Bangladesh [Ðông Hồi cũ], Indonesia [Nam Dương], Iraq, Myanmar [Miến Ðiện cũ], Nam Hàn, Pakistan [Hồi Quốc, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ...) hay Phi Châu (Algeria, Cộng Hòa Trung Phi, Congo- Brazaville và Congo-Kinshasa, Ai Cập, Ethiopia, , Ghana, Libya, Niger, Nigeria, Somalia, Sudan, Uganda...) và ngay cả tại những quốc gia không Cộng Sản và tân tiến ở Âu Châu như Hy Lạp (1967-1974), Bồ Ðào Nha (1926-1974) và Tây Ban Nha (1923-1975).<br /><br />Nhưng sự thật thì không phải như vậy. Dù miền Nam Việt Nam luôn nằm trong tình trạng chiến tranh -đất nước đã được Bộ Trưởng Quốc Phòng Nguyễn Ðình Thuần thời Ðệ Nhất Cộng Hòa tuyên bố nằm trong “tình trang lâm nguy” từ năm 1963- chế độ quân nhân dưới quyền các sĩ quan cao cấp trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn đem lại nhiều tự do, dân chủ hơn so với các quốc gia cùng thời nằm dưới các chế độ quân phiệt trên toàn thế giới và vẫn được đại đa số dân chúng kính trọng và thương yêu, đi đâu theo đó, từ trong nước ra tới hải ngoại. Còn nếu có một số thành phần dân chúng tại Việt Nam Cộng Hòa lên tiếng chỉ trích quân đội này trong nhiệm vụ vừa chiến đấu vừa tham gia quản trị đất nước thì đó cũng chỉ là chuyện bình thường trong một quốc gia thực sự có tự do, dân chủ. Riêng trong hoàn cảnh đặc biệt của miền Nam Việt Nam, những lời chỉ trích nào nhắm vào tập thể chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà không nằm trong xu hướng tự do, dân chủ tự nhiên kia của dân chúng thì đều phát xuất từ luận điệu tuyên truyền của phe Cộng Sản -mà vào lúc đó đang là kẻ thù nỗ lực thôn tính miền Nam tự do-hay từ những lời chỉ trích đầy ác ý và mang tính đạo đức giả của phe tả trên toàn thế giới chỉ mong sao Cộng Sản sớm chiến thắng tại Việt Nam rồi hậu quả ra sao thì cũng mặc kệ, bởi vì chính dân chúng miền Nam Việt Nam, chứ không phải họ, là kẻ phải hứng chịu tai họa-như thực tế đã chứng minh từ hơn ba thập niên qua- trong khi họ thì bất quá chỉ việc chịu khó lên báo, lên đài đặng biểu tỏ lòng ăn, năn hối hận qua quýt cho việc làm xuẩn động của mình trước kia là xong (như Joan Baez -và cả Jane Fonda nữa- đã làm, chứ John F. Kerry thì chưa).<br /><br />* Vai trò vừa quân sự vừa hành chánh của Quân Lực Việt Nam có tự bao giờ?<br /><br />Những người miền Nam Việt Nam trong nước cũng như ở hải ngoại, trước và sau năm 1975 vẫn coi ngày 19 Tháng Sáu năm 1965, ngày Quân Lực của miền Nam Việt Nam, là ngày tập thể chiến sĩ thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chính thức đảm nhiệm vai trò lịch sử điều khiển đất nước và chỉ huy nỗ lực chiến đấu tự vệ của miền Nam tự do chống lại cuộc chiến tranh thôn tính của Cộng Sản Bắc Việt, có Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tại miền Nam Việt Nam hỗ trợ. Sự thực thì thời điểm kể trên không phải là ngày quân đội bắt đầu đảm đương cùng một lúc cả nhiệm vụ quân sự lẫn vai trò hành chánh tại miền Nam Việt Nam mà chỉ là ngày mà tập thể chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa chính thức lên nắm giữ vai trò đó qua buổi lễ ra mắt trước quốc dân và quốc tế Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia (do Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch) và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (do Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm chủ tịch) tại thủ đô Sài Gòn. (Trước đó, vào ngày 11 Tháng Sáu năm 1965, Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát đã ra tuyên cáo “long trọng trao trả lại cho Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa trách nhiệm và quyền hành lãnh đạo quốc gia đã được Hội Ðồng Quân Lực ủy thác” cho chính quyền dân sự dưới quyền lãnh đạo của hai vị chiếu theo quyết định ngày 5 Tháng Năm năm 1965, tức là cách đó hơn một tháng)<br /><br />Cái ngày mà giới quân nhân trong quân đội bắt đầu đảm đương cả nhiệm vụ quân sự lẫn vai trò hành chánh tại miền Nam Việt Nam thật ra đã xảy ra từ sáu, bảy năm trước đó, dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, sau khi Cộng Sản Bắc Việt chính thức cho ra đời Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, 20 Tháng Mười Hai năm 1960, để làm bình phong che đậy việc họ xua quân quyết đánh chiếm miền Nam Việt Nam để đặt miền đất tự do này dưới quyền cai trị độc tài của đảng Cộng Sản Việt Nam. Trước tình hình Việt Cộng (Mặt Trận Giải Phóng) ngày càng gia tăng các vụ ám sát viên chức xã, ấp rồi đánh chiếm các làng mạc và cả các quận lỵ tại miền Nam Việt Nam, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, trong vai trò tổng tư lệnh quân đội chiếu theo hiến pháp Ðệ Nhất Cộng Hòa, đã phải thay thế các chức vụ quận trưởng và tỉnh trưởng tại những vùng chiến sự đang sôi động do các viên chức dân sự (ngạch phó đốc sự hành chánh trở lên) đảm nhận sang cho các sĩ quan quân đội, với các sĩ quan cấp Ðại úy đảm nhiệm chức vụ quận trưởng và sĩ quan cấp Ðại Tá làm tỉnh trưởng (Vị Ðại Uùy Quận Trưởng danh tiếng nhất thời đó là Ðại Uý Bùi Thụ, Quận Trưởng Quế Sơn tại Quảng Nam, đã tử trận sau khi ông tình nguyện ở lại tử thủ với vị đại úy quận trưởng kế nhiệm trong đêm Việt Cộng tấn công tràn ngập quận lỵ Quế Sơn vào đầu năm 1962, chỉ mấy tháng trước khi chính vị tổng tư lệnh quân đội bị quân đảo chánh hạ sát). Phải biết rằng Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và bào đệ là Cố Vấn Ngô Ðình Nhu rất cảnh giác trong chuyện trao cho giới quân nhân quyền hành lớn trong một đất nước mà hai nhà lãnh đạo này đang muốn chuyển đổi từ một quốc gia bất an về chính trị sau năm 1954 để trở thành một nền dân chủ trẻ trung tại Ðông Nam Á. Nhưng chuyện chính quyền Ngô Ðình Diệm đã phải chấp nhận giao quyền hành chính và quân sự cho giới quân nhân cho thấy vai trò của quân đội từ những năm đầu thập niên 1960 đã trở nên vô cùng thiết yếu cho sự sống còn của miền Nam tự do giữa lúc các lực lượng Cộng Sản từ miền Bắc đang gia tăng nỗ lực thôn tính Miền Nam. (1)<br /><br />Cuộc đảo chánh chống chính quyền của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và bào đệ là Cố Vấn Ngô Ðình Nhu vào ngày 1 Tháng Mười Một năm 1963 do Trung Tướng Dương Văn (Big) Minh -người “anh hùng Rừng Sát” năm 1955- và các tướng lãnh trong Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng thực hiện -có sự yểm trợ của Chính Quyền Kennedy từ Hoa Kỳ thông qua Tòa Ðại Sứ Mỹ tại Việt Nam- và những năm tháng sau đó có thể được coi là thời điểm duy nhất mà Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa đã tóm thâu mọi quyền hành chánh và quân sự vào trong tay họ và đặt Miền Nam Việt Nam dưới một chế độ quân trị (milirary rule) mang tính cách quân phiệt (militarist) trong ý nghĩa đầy đủ nhất. Tình thế hỗn quân, hỗn quan lúc bấy giờ tại Miền Nam Việt Nam (đảo chánh và chỉnh lý liên tiếp ngay bên trong hàng ngũ các tướng lãnh đã lật đổ Tổng Thống Diệm, với quyền lãnh đạo phe quân nhân cầm quyền từ tay Trung Tướng Dương Văn Minh chuyển sang Trung Tướng Nguyễn Khánh rồi sau cùng là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu) cộng với các cuộc tấn công dồn dập về mặt chính trị (Cộng Sản xúi giục dân chúng biểu tình gây rối loạn trên đường phố, tại các học đường và trong các chùa chiền...) và quân sự (với những vụ ám sát các viên chức xã, ấp cùng những cuộc tấn công tràn ngập các tiền đồn hẻo lánh, xã ấp riêng rẽ và cả những quận lỵ và tỉnh lỵ phòng thủ yếu kém...) là động cơ chính yếu buộc Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa phải nắm quyền cả về mặt quân sự lẫn mặt hành chánh.<br /><br />Nhưng sau thời gian xáo trộn và náo loạn ngoài ý muốn của tất cả các thành phần quân sự cũng như dân sự tại miền Nam Việt Nam, Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa, ít nhất cũng đã một lần, chứng tỏ thiện chí muốn trao trả quyền hành lại cho phe dân sự để dành thì giờ chiến đấu chống cuộc xâm chiếm miền Nam Việt Nam của Cộng Sản Bắc Việt từ Hà Nội (mà vào lúc đó đã trở thành công khai với việc Cộng Sản Bắc Việt thiết lập Ðường Mòn Hồ Chí Minh chạy dọc theo sườn phía Tây của dãy Trường Sơn đặng đưa người và vũ khí xâm nhập vào Nam, yểm trợ tối đa cho các lực lượng du kích của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam mở những cuộc tấn công quy mô vào các làng mạc và thành thị tại Miền Nam Việt Nam). Ðó là vào ngày 5 Tháng Năm năm 1965 khi Hội Ðồng Quân Lực (trước đó là Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng) dưới quyền các tướng lãnh trong Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa đã trao quyền cai trị đất nước về cho các chính trị gia thuộc phe dân sự tại Miền Nam Việt Nam với một chính phủ dân sự dưới quyền Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát. Ðiều không may là, phe dân sự tại Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, dù gồm nhiều chính trị gia nổi tiếng, nhiều chuyên gia lỗi lạc và nhiều nhà khoa bảng từ ngoại quốc trở về, đã không thể nào vừa điều hành đất nước một cách hữu hiệu vừa bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ, bởi vì tình trạng “thù trong, giặc ngoài” chẳng những đã không giảm bớt mà ngày một gia tăng, với tình hình quân sự lúc đó được mô tả là hết sức nguy ngập khi cường độ tấn công, phá hoại của Cộng quân tại các địa phương đã gia tăng vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chính quyền và các lực lượng an ninh tại chỗ. Việc gì phải đến, đã đến. Sau mới ba tháng đứng ra “lèo lái con thuyền quốc gia” mà không xong, vào ngày 11 Tháng Sáu năm 1965, phe dân sự, dưới quyền của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát, đành phải ra tuyên cáo trao trả lại quyền cai trị đất nức lại cho Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa. (2)<br /><br /><br />* Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong vai trò lãnh đạo đất nước chiến đấu chống Cộng Sản Bắc Việt xâm lược<br /><br />Sau khi được trao quyền, vào ngày 12 Tháng Sáu năm 1963, trong một cuộc họp quy tụ tất cả những tướng lãnh đang nắm các trọng trách trong quân đội từ cấp Tổng Tham Mưu Trưởng, tư lệnh các Vùng Chiến Thuật cho đến các tư lệnh quân, binh chủng, Hội Ðồng Quân Lực đã đề cử Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đảm nhiệm chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia (tương đương tổng thống), và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ giữ chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (tương đương thủ tướng).<br /><br />Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, trong vai trò mới được giao, đã tiến hành thiết lập thể chế và các cơ cấu quốc gia cùng lập nên một Nội Các Chiến Tranh để thực hiện việc tiếp tục cuộc chiến đấu chống Cộng Sản xâm lược và phát triển đất nước.<br /><br />Ngày 19 Tháng Sáu năm 1965, trong một buổi lễ ra mắt được long trọng tổ chức tại thủ đô Sài Gòn, các thành phần trong Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương đã tuyên thệ trung thành với tổ quốc, nhận trách nhiệm làm thành phần tiền phương của quân, dân Miền Nam Việt Nam trong vai trò chỉ huy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ đất nước và điều khiển chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội, văn hóa và giáo dục để xây dựng Miền Nam Việt Nam thành một quốc gia phú cường có thể sánh vai cùng các quốc gia khác trong cộng đồng thế giới.<br /><br />Trong vai trò mới, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ở hậu phương thì lo xây dựng nền độc lập, tự do và dân chủ, diệt trừ những mầm mống nằm vùng bạo loạn và phát triển kinh tế, ngoài tiền tuyến thì chỉ huy quân đội ngăn chống những đợt sóng xâm lăng của Cộng Sản ngày càng mãnh liệt từ Miền Bắc tràn vào. Như vậy, ngày 19 Tháng Sáu năm 1965 là ngày đánh dấu sự kiện Quân Lực Việt Nam Cộn Hòa đứng lên gánh vác trách nhiệm lớn là bảo vệ nền tự do và độc lập của Miền Nam Việt Nam đồng thời làm tiền đồn ngăn chặn làn sóng Cộng Sản tại Ðông Nam Á.<br /><br />Nhưng giới lãnh đạo quân sự tại Miền Nam Việt Nam, tức Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vì ý thức cao độ rằng cuộc chiến đấu tự vệ chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của Cộng Sản từ ngoài Bắc vào không phải là một cuộc chiến đơn thuần về quân sự mà là một trận chiến phối hợp giữa các mặt trận quân sự và chính trị cũng như kinh tế, đồng thời còn cảnh giác cao độ về vai trò sinh tử của một chế độ tự do, dân chủ tại Miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến tranh một mất, một còn với phe Cộng Sản quốc tế, đã phải tìm cách chuyển đổi chế độ hội đồng quân nhân cầm quyền (military junta) hiện có sang một thể chế dân chủ hợp hiến và hợp pháp mới mong nâng cao uy tín của Việt Nam Cộng Hòa trên trường quốc tế.<br /><br />Từ 1966 tới 1967, mặc dù chiến sự vẫn tiếp tục diễn ra vô cùng ác liệt trên kắp các mặt trận tại Miền Nam Việt Nam -với sự can dự trực tiếp của quân đội Hoa Kỳ và các lực lương Ðồng Minh như Ðại Hàn, Úc Ðại Lợi, Tân Tây Lan, và Thái Lan- chính quyền Miền Nam Việt Nam dưới quyền của các Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, với sự hỗ trợ của chính phủ, dân chúng và quân đội Ðồng Minh Hoa Kỳ, quyết tâm tổ chức các cuộc tuyển cử tự do để thành lập nền Ðệ Nhị Cộng Hòa thay thế cho nền Ðệ Nhất Cộng Hòa của cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã cáo chung sau cuộc đảo chánh đẫm máu năm 1963.<br /><br />Với các chủ trương và đường lối đúng đắn đó, lần lượt các cuộc bầu cử tổng thống, Quốc Hội và hội đồng tỉnh, thành được mở ra trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa để bầu ra, trước hết, một Quốc Hội, rồi sau đó là một vị tổng thống dân cử đầu tiên của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa. Trong nền Ðệ Nhị Cộng Hòa của Miền Nam Việt Nam, mặc dù các chức vụ quan trọng như tổng thống, bộ trưởng quốc phòng, tư lệnh cảnh sát, đại biểu chính phủ tại các vùng chiến thuật, tỉnh trưởng và quận trưởng... đều do giới quân nhân nắm giữ, nhưng nhờ có bộ mặt dân sự hợp pháp và hợp hiến, nước Việt Nam Cộng Hòa mới thời hậu Tổng Thống Diệm đã lần lượt có được sự thừa nhận của nhiều quốc gia thân hữu trên trường quốc tế, trong đó phải kể tới một số nước Ả Rập mà tiêu biểu là Vương Quốc Ả Rập Saudi kiên quyết chống Cộng ở Trung Ðông.<br /><br />Tháng Mười Một năm 1967, sau khi đắc cử vào chức vụ tổng thống đầu tiên của Ðệ Nhị Cộng Hòa, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, trong vai trò tổng thống kiêm tổng tư lệnh quân đội, tiếp tục cho tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm hàng năm Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu với những cuộc diễn binh của tất cả các đơn vị và quân, binh chủng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa để biểu dương sức mạnh và ý chí quyết thắng của dân chúng Miền Nam Việt Nam chống lại cuộc xâm lược kéo dài của Cộng Sản Bắc Việt từ miền Bắc vào. Trong khi đó, tiến trình dân chủ hóa Miền Nam Việt Nam vẫn đều đặn diễn ra, với những cuộc bầu cử từ tổng thống cùng phó tổng thống và các đại biểu lưỡng viện Quốc Hội cho tới các nghị viên hội đồng thành phố và tỉnh trên toàn cõi Miền Nam Việt Nam. Cho dù Miền Nam Việt Nam vẫn đang đắm chìm trong khói lửa chiến chinh -với những trận chiến ác liệt như chiến dịch bắc phạt của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa (1966-1967), cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân của Cộng Sản (1968), cuộc hành quân đánh sang Căm Bốt của Quân Ðoàn 3 (1970), cuộc hành quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đánh sang Hạ Lào (1971), cuộc tổng tấn công của Cộng Sản vào Mùa Hè Ðỏ Lửa (1972), cuộc không tập và phong tỏa Bắc Việt của Hoa Kỳ vào Giáng Sinh 1972... và với những biến cố chính trị lớn lao như cuộc Hòa Ðàm Ba Lê (1968-1972), việc ký kết Hiệp Ðịnh Ba Lê 1973, cuộc trao trả tù binh các bên lâm chiến (1973), những vụ Cộng Sản lấn đất, giành dân, vi phạm hiệp Ðịnh Ba Lê mà cao điểm là cuộc tấn công đánh chiếm Phước Long (1974)... tiến trình dân chủ hóa Miền Nam Việt Nam đã diễn ra khá tốt đẹp dưới quyền lãnh đạo của một chính quyền mà đa số các giới chức cao cấp đều là sĩ quan hiện dịch trong quân đội hoặc có gốc nhà binh.<br /><br />Mấy ai có thể tưởng nghĩ được rằng, vào năm tồn tại cuối cùng của mình là 1975, guồng máy chính quyền Miền Nam Việt Nam, tuy do các “chính trị gia” gốc quân nhân lãnh đạo, lại có thể bao gồm một quốc hội với sự hiện diện của không ít các nghị sĩ và dân biểu đối lập (như Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Trần Văn Ðôn, Lý Quý Chung...) và vô số các đảng phái cũng như chính trị gia đối lập (cỡ Linh Mục Trần Hữu Thanh và nhà báo Ngô Công Ðức) ngày đêm chỉ trích và “mắng mỏ” từ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho tới Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và Phụ Tá An Ninh Tổng Thống là Trung Tướng Ðặng Văn Quang?<br /><br /><br />* Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vừa đánh giặc vừa tham chính<br /><br /><br />Vào ngày 26 Tháng Mười năm 1956, chính phủ Ngô Ðình Diệm khởi sự tái tổ chức các lực lượng thuộc Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam được thành lập từ lúc Quốc Gia Việt Nam (Eùtat du Vietnam) ra đời ngày 8 Tháng Ba năm 1949 theo Thỏa Hiệp Eùlysée giữa Pháp và Việt Nam, và quân đội này mang danh xưng mới là Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa. Các lực lượng chiến đấu trên không và trên biển được gọi là Không Quân Việt Nam và Hải Quân Việt Nam. Trong những năm tháng đầu của cuộc Chiến Tranh Việt Nam, đối tượng giao tranh của quân đội này là các lực lượng du kích thuộc Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, một tổ chức bung xung được Cộng Sản Bắc Việt dựng lên vào Tháng Mười Hai năm 1960 và được dùng làm công cụ xúc tiến việc lật đổ chính quyền Ngô Ðình Diệm và đánh chiếm Miền Nam tự do bằng vũ lực cho ra cái điều là chính dân chúng tại Miền Nam Việt Nam đã tự mình nổi dậy chống lại chính phủ của Tổng Thống Diệm -mà Cộng Sản vẫn coi là bù nhìn của Mỹ-chứ không phải là do quân Cộng Sản từ ngoài Bắc tiến vào tấn công, vì làm như vậy là vi phạm nặng nề Hiệp Ðịnh Genève 1954 về “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Ðông Dương” mà chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Cộng Sản Bắc Việt) của ông Hồ Chí Minh đã ký kết.<br /><br />Dưới thời Tổng Thống Mỹ John F. Kennedy, nhiều cố vấn quân sự và một số đáng kể kinh viện và quân viện của Hoa Kỳ đã được đổ vào Miền Nam Việt Nam để yểm trợ cho chính phủ và Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa trong nỗ lực tiễu trừ du kích quân Cộng Sản, thường được gọi là Việt Cộng, cùng với quân chính quy Bắc Việt từ Miền Bắc xâm nhập vào đánh phá Miền Nam. Có thể nói rằng vai trò vừa đánh giặc -tức là chiến đấu chống quân Cộng Sản Bắc Việt xâm lược-và vừa tham chính -tức là tham gia công cuộc quản trị guồng máy hành chánh đất nước- của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã khởi đầu kể từ cuộc đảo chánh của quân đội, vào ngày 1 Tháng Mười Một năm 1963, lật đổ nền Ðệ Nhất Cộng Hòa của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, rồi lên cao điểm vào ngày 19 Tháng Sáu -là Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa-khi chính quyền dân sự trao trách nhiệm lãnh đạo đất nước cho quân đội, và còn tiếp tục dưới hình thức quân đội tham chính trong các chính phủ dân sự thời Ðệ Nhị Cộng Hòa.<br /><br />Những xáo trộn chính trị xảy ra tại Miền Nam Việt Nam sau cuộc đảo chánh và lật đổ Tổng Thống Diệm đã làm lung lay gần như tận gốc rễ cấu trúc xã hội tại Miền Nam Việt Nam sau chín năm dài miền đất này được sống trong ổn định về kinh tế và tương đối an ninh vì chính quyền cũng như quân đội còn đang kiểm soát được đất nước. Giờ đây, nương vào những xáo trộn này, Cộng Sản Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam liền gia tăng các cuộc tấn công, phá hoại tại Miền Nam Việt Nam, khởi đầu là những vụ tấn công vào các đồn bót và tiền đồn hẻo lánh tại các vùng quê, kèm theo là những vụ ám sát các viên chức xã, ấp, sau lan dần tới việc Cộng quân dùng những đơn vị lớn đánh úp hoặc chiếm đóng các quận lỵ (chi khu) và tỉnh lỵ (tiểu khu) trên bốn vùng chiến thuật của Miền Nam Việt Nam. Các cuộc đảo chánh và phản đảo chánh -mà Tướng Nguyễn Khánh gọi là “chỉnh lý”- cùng những cuộc biểu tình “hoan hô, đả đảo” do các giáo phái và các phe nhóm chính trị khác nhau -hầu hết đều có sự giật dây của Cộng Sản để thủ lợi-liên tục xảy ra khiến tình hình quân sự tại Miền Nam Việt Nam ngày càng suy đồi, kéo theo nạn kinh tế khủng hoảng, vật giá gia tăng không kềm chế nổi, giáo dục học đường chểnh mảng, thế đạo ngã nghiêng, nhân tâm ly tán... Vào cuối năm 1964, tức là chỉ một năm sau cuộc đảo chánh, Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa, đang nắm quyền điều khiển guồng máy hành chánh và quân sự trong nước, cũng đã thật sự phải đối diện với nguy cơ sụp đổ trước các cuộc tấn công gia tăng ác liệt của Cộng quân. Các bản tin chiến sự lúc bấy giờ cho hay Cộng quân, lợi dụng tình trạng hỗn quan, hỗn quân tại Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, đã gia tăng các cuộc tấn công lấn chiếm trên toàn quốc, khiến cho lãnh thổ quốc gia tại Miền Nam Việt Nam ngày càng bị thu hẹp, với nhịp độ thất thủ có lúc lên đến chóng mặt là mỗi tuần mất đi một quân lỵ và mỗi tháng mất đi một tỉnh lỵ.<br /><br />Tháng Ba năm 1965, trước nguy cơ chẳng sớm thì muộn Miền Nam Việt Nam có thể mất vào tay Cộng Sản, chính quyền của Tổng Thống Lyndon Johnson, nhân vật kế nhiệm Tổng Thống Kennedy bị ám sát hồi Tháng Mười Một năm 1963, đã phải quyết định “Mỹ hóa” cuộc chiến tranh tại Việt Nam bằng cách đổ hằng trăm nghìn quân Mỹ vào Miền Nam Việt Nam, thiết lập các căn cứ quân sự, đồn bót, phi trường và hải cảng trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa và mở những cuộc hành quân lớn “lùng và diệt” các lực lượng du kích địa phương và chính quy xâm nhập từ Miền Bắc vào Miền Nam. Các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến, Không Vận, Bộ Binh, Không Quân và Hải Quân Mỹ cùng quân đội các nước đồng minh khác như Ðại Hàn Dân Quốc, Úc Ðại Lợi, Tân Tây Lan... tham gia chiến đấu chống lại Cộng quân. Vào lúc cao điểm của cuộc chiến, tổng số quân nhân Mỹ phục vụ trên các chiến trường tại Việt Nam lên tới 500,000 người. Với hằng trăm cuộc hành quân tiễu trừ Cộng sản lớn, nhỏ từ cao nguyên xuống đồng bằng và từ Khu Phi Quân Sự (DMZ) giáp Sông Bến Hải ở phía Bắc cho đến vùng kênh rạch ở Cà Mau, Bộ Tư Lệnh Quân Ðội Hoa Kỳ tại Việt Nam, trên thực tế, hoàn toàn nắm quyền kiểm soát cuộc chiến tranh chống Cộng, và vai trò của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trở nên thứ yếu.<br /><br />Kể từ cuối năm 1965 trở đi, nhờ sự kiện Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có được chính danh sau khi được chính phủ dân sự của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát chính thức trao quyền cai trị đất nước và điều khiển quân đội (ngay trước Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu), mọi xáo trộn chính trị trong nước lần lượt qua đi và quân đội Miền Nam Việt Nam khởi sự phục hồi lại phần lớn năng lực đã mất để có thể nới rộng vai trò chống du kích sang vai trò căn bản là bảo vệ lãnh thổ trước các cuộc tấn công quấy rối và lấn đất, giành dân của Cộng quân. Dần đà, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã có đủ khả năng mở các cuộc hành quân tảo thanh Việt Cộng trên bốn vùng chiến thuật song song với các lực lượng Hoa Kỳ và Ðồng Minh đang có mặt trên khắp các chiến trường.<br /><br />Nhưng vai trò của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ nổi bật trở lại sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 khi hằng chục sư đoàn Cộng quân gồm bộ đội chính quy Cộng Sản Bắc Việt và quân du kích của mật Trận Giải Phóng Miền Nam đồng loạt mở cuộc “tổng tấn công, tổng nổi dậy” bất ngờ trong thời gian hưu chiến nhân dịp Tết, đánh vào nhiều tỉnh lỵ và thành phố tại Miền Nam Việt Nam, kể cả thủ đô Sài Gòn và cố đô Huế. Nhưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã đứng vững và lần lượt tái chiếm hết những phần đất bị Cộng quân tạm chiếm, kể cả cố đô Huế, và xóa tên nhiều đại đơn vị của Cộng quân. Cũng kể từ năm 1968, Miền Nam Việt Nam khởi sư tổng động viên nhân lực tham gia quân đội, khiến cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đạt tới mức có sẵn 1 triệu binh sĩ chiến đấu dưới cờ vào năm 1972.<br /><br />Quân đội này lại còn hùng mạnh hơn lên khi đồng minh Hoa Kỳ quyết định tăng cường võ trang các chiến cụ tối tân cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa để họ có thể tự mình chiến đấu bảo vệ Miền Nam Việt Nam đặng quân Mỹ có thể yên lòng và có thêm chính danh mà rút về nước trong một chiến lược mới được gọi là kế hoạch “Việt Nam Hóa” chiến tranh (Vietnamization of the war) do Tổng Thống Richard Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia lúc bấy giờ là Tiến Sĩ Henry Kissinger đề xướng. (3) Chính nhờ công cuộc “Việt Nam Hóa” chiến tranh này mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày càng có đủ khả năng chiến đấu hữu hiệu chống các lực lượng thuộc Quân Ðội Nhân Dân của Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập vào Miền Nam cũng như các lực lượng địa phương của mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Trên thực tế, vào thời điểm này, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã thực hiện nhiều gấp ba lần các cuộc hành quân so với thời gian quân đội Hoa Kỳ và Ðồng Minh đảm nhiệm vai trò chính trong các chiến dịch tấn công Cộng quân trước đây, đáng kể nhất là cuộc “Hành Quân Toàn Thắng 43” năm 1970 vượt biên tấn công các căn cứ hậu cần của Cộng Sản Bắc Việt tại Căm Bốt và cuộc “Hành Quân Lam Sơn 719” năm 1971 tấn công vào hệ thống Ðường Mòn Hồ Chí Minh tại Nam Lào, ngay dưới Khu Phi Quân Sự (DMZ), mặc dù các cuộc hành quân do Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn phải trông cậy nhiều vào hỏa lực yểm trợ của phi pháo từ các phản lực chiến đấu cơ và từ những trực thăng võ trang Hoa Kỳ. (4)<br /><br />Năm 1972, Tướng Võ Nguyên Giáp của Cộng Sản Bắc Việt mở cuộc tấn công lớn trong “Mùa Hè Ðỏ Lửa” -mà người Mỹ gọi là “Cuộc Tấn Công Mùa Lễ Phục Sinh” (Easter Offensive)-cuộc tấn công toàn diện đầu tiên do tất cả các đại đơn vị thiện chiến của Cộng Sản Bắc Việt và các lực lượng du kích địa phương phối hợp thực hiện đánh vào các quận lỵ và tỉnh lỵ có tầm vóc quan trọng về mặt chiến lược tại Miền Nam Việt Nam. Trong giai đoạn đầu, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vì yếu tố bất ngờ, đã phải chịu tổn thất khá nặng nề, nhưng vẫn giữ vững được hầu hết các phòng tuyến trên toàn lãnh thổ. Cộng Quân chiếm được phần lớn tỉnh địa đầu giới tuyến Quảng Trị và một số khu vực dọc theo vùng biên giới với Lào và Căm Bốt.<br /><br />Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ngay sau đó, đã khởi sự những cuộc phản công quyết liệt và hữu hiệu trên khắp các mặt trận chính yếu. Nhờ sức chiến đấu kiên cường và anh dũng của các đơn vị tinh nhuệ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cùng sự yểm trợ bằng phi pháo và hải pháo hùng hậu của Hoa Kỳ tại các mặt trận từ An Lộc (ở Vùng 3 Chiến Thuật) cho tới Quảng Trị (thuộc Vùng 1 Chiến Thuật) và Kon Tum (tại Vùng 2 Chiến Thuật), cuộc tổng công kích Mùa Hè 1972 của Cộng quân đã bị bẻ gãy. Các cuộc phản công của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là tại các mặt trận An Lộc gần thủ đô Sài Gòn và tại Cổ Thành Quảng Trị gần Khu Phi Quân Sự, đã đánh bật được các lực lượng Cộng Sản ra khỏi những vị trí mà họ đã vây hãm hoặc cố thủ.<br /><br />Cho tới đầu năm 1974, Hoa Kỳ hầu như đã rút hết các lực lượng chiến đấu của họ ra khỏi Miền Nam Việt Nam, và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ nay đã phải đơn độc chiến đấu cho sự sống còn của Miền Nam Việt Nam trong khi các lực lượng Cộng Sản vẫn tiếp tục nhận được những khoản viện trợ dồi dào về vũ khí, đạn dược và tiếp liệu từ các nước đàn anh Trung Quốc và Liên Xô để kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam Cộng Hòa mặc dù họ đã hạ bút ký tên vào bản Hiệp Ðịnh Ba Lê, chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình tại Miền Nam Việt Nam.<br /><br />Mùa Thu năm 1974, Tổng Thống Richard Nixon đã phải từ chức vì vụ tai tiếng chính trị Watergate, và Tổng Thống Gerald Ford lên thay. Nóng lòng muốn rút chân ra khỏi Việt Nam, Quốc Hội Hoa Kỳ do đảng Dân Chủ kiểm soát khởi sự cắt bớt các khoản viện trợ quân sự và kinh tế dành cho Việt Nam Cộng Hòa, từ 1 tỷ đô-la mỗi năm xuống còn 700 triệu đô-la. Lịch sử coi sự sụp đổ của Sài Gòn vào ngày 30 Tháng Tư năm 1975 là hậu quả của việc Hoa Kỳ giảm thiểu rồi cắt đứt quân viện và kinh viện cho Việt Nam Cộng Hòa. Không có viện trợ của Hoa Kỳ, Miền Nam Việt Nam cảm thấy, về mặt tiếp vận và tài chánh, không thể nào tiếp tục cuộc chiến tranh để đánh bại quân Cộng Sản xâm lược được. Không còn nghi ngờ gì nữa, việc cắt giảm rồi chấn dứt viện trợ của Hoa Kỳ dành cho Việt Nam Cộng Hòa, chủ yếu là vũ khí và đạn dược cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục chiến đấu, đã khuyến khích các nhà lãnh đạo Cộng Sản tại Hà Nội tiến hành cuộc tổng tấn công sau cùng để đánh chiếm toàn bộ Miền Nam Việt Nam. (5)<br /><br />Ðầu năm 1975, sau khi Hoa Kỳ đã hầu như hoàn toàn kết thúc việc can thiệp vào và giúp đỡ cho chính phủ và các lực lượng quân sự Việt Nam Cộng Hòa, Cộng Sản Bắc Việt đã quyết định mở cuộc tổng tấn công sau cùng để thanh toán một mục tiêu mà họ đã tiên liệu là thế nào cũng rơi vào tay họ trước tình trạng nước đồng minh chính yếu của Miền Nam Việt Nam, sau hơn một thập niên can dự vào cuộc Chiến Tranh Việt Nam, mất đi 58,000 chiến binh và hao tổn đến hằng trăm tỷ Mỹ kim, đã tiêu tan hết mọi ý chí chiến đấu để chiến thắng trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam.<br /><br />Các lực lượng Cộng Sản đã lần lượt đánh chiếm Ban Mê Thuột ở Vùng 2, tràn xuống Khánh Hòa-Nha Trang ở vùng duyên hải, rồi ngược lên phía Bắc đánh chiếm Huế và Ðà Nẵng tại Vùng 1 Chiến Thuật. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mất tinh thần vì rõ ràng là đã bị Ðồng Minh bỏ rơi nửa chừng, cứ tiếp tục lui binh mãi về hướng thủ đô Sài Gòn ở phía Nam, thuộc Vùng 3 Chiến Thuật, và chỉ kháng cự bằng một trận đánh quan trọng tại Xuân Lộc, nơi đây Sư Ðoàn 18 Bộ Binh dưới quyền Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo, cùng với các lực lượng Nhảy Dù và Biệt Ðộng Quân, đã bẻ gãy tất cả các mũi dùi tấn công của Cộng quân và gây thiệt hại rất nặng nề về nhân mạng cho quân tấn công. Các cấp chỉ huy quân sự Cộng Sản đành phải lặng lẽ rời bỏ mặt trận này, đi vòng về phía Tây qua vùng giáp ranh giữa Quân Khu 2 và Quân Khu 3 mà tiến xuống phía Nam đặng thực hiện kế hoạch bao vây thủ đô Sài Gòn.<br /><br />Trận chiến dứt điểm thủ đô của Miền Nam tự do không kéo dài như các quan sát viên quân sự từng dự đoán, bởi vì các nhà lãnh đạo Cộng Sản từ Hà Nội kéo vào đã khéo léo phối hợp các nỗ lực quân sự với những đòn chính trị có tính cách vừa dụ dỗ những thành phần nhẹ dạ và thân Cộng vừa ly gián các lực lượng của người Quốc Gia chân chính vẫn muốn chiến đấu tới cùng trong một trận sống mái với Cộng Sản rồi ra sao thì ra, trong đó phải kể tới những đơn vị lớn thuộc các quân, binh chủng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là Sư Ðoàn Nhảy Dù tinh nhuệ và được coi là bách chiến, bách thắng của Miền Nam Việt Nam. Vào sáng ngày 30 Tháng Tư năm 1975, Tổng Thống Dương Văn Minh -lên kế nhiệm Tổng Thống Trần Văn Hương, nhà lãnh đạo luống tuổi từng thay thế Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức và bỏ nước đi lưu vong vào chiều ngày 21 Tháng Tư, 1975-đã phải công bố lệnh đầu hàng không điều kiện trước các lực lượng Cộng Sản và Sài Gòn chính thức rơi vào tay Cộng quân. Ðiều cần ghi nhận là, sau khi chính quyền trung ương của Việt Nam Cộng Hòa tại thủ đô hoàn toàn tan rã, hầu như toàn thể Vùng 4 Chiến Thuật dưới quyền của vị Tư Lệnh Quân Khu 4, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, vẫn còn nguyên vẹn, vì Cộng quân không có đủ lực lượng để tiến vào nơi đây. Các danh tướng và cấp chỉ huy ưu tú của Quân Lực Việt Nam Việt Nam Cộng Hòa như Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, và Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn... đều tự vẫn hoặc chiến đấu cho đến chết để chứng tỏ khí phách anh hùng của giới sĩ quan cao cấp trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chủ trương “thành mất thì chết theo thành,” một truyền thống mà trong lịch sử cận đại của Việt Nam, Kinh Lược Sứ Phan Thanh Giản và Tổng Ðốc Hoàng Diệu đã nêu gương sáng sau khi sáu tỉnh Nam Kỳ và Thành Hà Nội rơi vào tay quân xâm lược Pháp hồi cuối thế kỷ 19. (6)<br /><br />Sau hơn hai thập niên chiến đấu kiên cường -trong đó có gần một thập niên nằm dưới quyền điều khiển của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa- Việt Nam Cộng Hòa và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vì bị Hoa Kỳ bỏ rơi nửa chừng, đành phải bại trận một cách tức tưởi vào ngày 30 Tháng Tư năm 1975 trước những nhà chinh phục Cộng Sản từ miền Bắc tiến vào. Cái chết của Miền Nam Việt Nam và cái chết của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là hậu quả tất yếu của một cuộc chiến tranh trong đó cả hai bên lâm chiến đều không ai có đủ điều kiện -quân sự, kinh tế và chính trị- một mình đứng ra đảm đương cuộc chiến mà phải nhờ đến các thế lực bên ngoài. Rồi khi một trong hai bên nào đó thình lình bị đồng minh bỏ rơi -như trường hợp của Việt Nam Cộng Hòa- thì kẻ bị bỏ rơi đương nhiên phải thua trận.<br /><br /><br />* Chế độ quân nhân tại Việt Nam Cộng Hòa không phải là chế độ quân phiệt, Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu phải được tôn vinh<br /><br /><br />Như đã tình bày ở trên, chế độ quân nhân tại Miền Nam Việt Nam, thoạt tiên tuy do các thành phần sĩ quan cao cấp của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa giữ vai trò lãnh đạo, đã khác biệt gần như hoàn toàn với các chế độ quân phiệt đương thời trên toàn thế giới. Các lý do sau đây làm sáng tỏ nhận định này:<br /><br />- Chế độ quân phiệt tồn tại mà không cần lý do chính đáng, phần lớn là do các lãnh tụ quân phiệt tự tạo nên lý do tồn tại, như viện cớ phải bành trướng thế lực trên trường quốc tế (trường hợp quân phiệt Nhật Bản trước và trong Ðệ Nhị Thế Chiến), chống xu hướng Cộng Sản (trường hợp Hy Lạp, Thái Lan và Indonesia thời Suharto), chống phiến quân tả phái (trường hợp Chile, El Salvador, Nicaragua...) hoặc chống tất cả các khuynh hướng đối lập (trường hợp Pakistan, Ai Cập, Libya, Myanmar...)<br /><br />Chế độ quân nhân tại Việt Nam Cộng Hòa không tự phát sinh mà ra đời do những hoàn cảnh đặc biệt của đất nước. Ngay như cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Ðình Diệm hồi năm 1963 để đưa Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng lên cầm quyền, dù vẫn bị coi là tai hại cho nền độc lập của đất nước (vì do Mỹ giật dây) và làm suy yếu nỗ lực chiến đấu chống Cộng, vẫn được biện minh vì chế độ của ông Diệm có khuynh hướng kỳ thị Phật Giáo và không chịu triệt để đi theo đường lối của Hoa Kỳ là nước đang cung cấp kinh viện và quân viện cho Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.<br /><br />- Chế độ quân phiệt thường tự mình gây ra chiến tranh chống một nước khác hoặc chống lại chính nhân dân của đất nước mình. Ðó là trường hợp của quân phiệt Nhật Bản trước và trong Ðệ Nhị Thế Chiến (dưới thời Thủ Tướng Hideki Tojo [Ðông Ðiều]) và các chế độ quân phiệt tại Chile hay Myanmar khi chính quyền do các hội đồng quân nhân tại các nước đó gây chiến tranh chống lại các dân tộc khác hay chống lại chính dân chúng của mình mà họ gọi là loạn quân hay quân nổi dậy. Một số tài liệu lịch sử mới được tiết lộ cho thấy rằng, vào Tháng Hai năm 1947, quân đội Trung Hoa Quốc Gia của Thống Chế Tưởng Giới Thạch đã phạm tội tàn sát hằng chục nghìn thường dân vô tội trên Ðảo Ðài Loan khi các lực lượng Quốc Dân Ðảng Trung Hoa được phái sang hải đảo này để chống lại cuộc nổi dậy của dân chúng địa phương.<br /><br />Trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam, Việt Nam Cộng Hòa là nạn nhân của cuôc xâm lấn của Cộng Sản từ miền Bắc, và chế độ quân nhân tại đây chẳng những không đánh lại chính nhân dân mình mà, trái lại, còn hy sinh xương máu để bảo vệ cuộc sống tự do và thanh bình của dân chúng, cho nên người lính Cộng Hòa luôn được đa số dân chúng -những thành phần không bị Cộng Sản mê hoặc-ủng hộ và đi theo (trong các cuộc di tản hoặc chạy loạn) cho đến khi bị địch pháo kích chết thì thôi.<br /><br />- Chế độ quân phiệt tồn tại mãi cho tới khi nào bị dân chúng trong nước hoặc các thế lực goại bang dẹp bỏ mới thôi. Ðiều này đúng cho hầu hết các chế độ quân nhân tại Nam Mỹ, Ðông Nam Á và Phi Châu. Chế độ quân nhân tại Việt Nam Cộng Hòa, được khai sinh từ ngày lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm hồi năm 1963 và tái lập vào ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu năm 1965, đã tự ý trao quyền cho một thể chế dân sự hoặc xuyên qua các tuyên cáo và quyết định (như Quyết Ðịnh Số 4 ngày 16 Tháng Hai năm 1965 của hội Ðồng Quân Lực trao quyền quản trị hành chánh quốc gia lại cho phe dân sự tại Miền Nam Việt Nam) hoặc qua các cuộc bầu cử tổng thống, Quốc Hội và các hội đồng tỉnh, thành tại Miền Nam Việt Nam thời Ðệ Nhị Cộng Hòa.<br /><br />- Các thành phần lãnh đạo của những chế độ quân phiệt thường lạm quyền, tham nhũng và gây nhiều tội ác chống lại dân chúng cho nên sau khi các chế độ này sụp đổ thì các lãnh tụ của chế độ thường bị các chế độ kế tiếp hay chính dân chúng tại các quốc gia đó xử tội. Ðó là trường hợp của nhà độc tài Suharto bên Indonesia và Pinochet ở Chile. Riêng chế độ quân nhân tại Miền Nam Việt Nam, vì xuất thân từ dân chúng mà ra, đã không hề gây tội ác nào với dân chúng, nếu không nói được là họ đã xả thân chăm lo bảo vệ hạnh phúc của dân chúng. Nền Ðệ Nhị Cộng Hòa tại Miền Nam Việt Nam tuy cũng mang tiếng là có những thành phần tham nhũng, nhưng mức độ tham nhũng đó chẳng có gì đáng kể một khi đem so với các chế độ quân phiệt hay độc tài đương thời tại những nơi khác, từ Á Châu cho tới Mỹ Châu La-tinh và Phi Châu, đừng nói gì đến chuyện đem so sánh với mức đô tham nhũng hiện nay của các viên chức chế độ Cộng Sản tại Việt Nam bây giờ.<br /><br />Ðiều độc đáo và quan trọng nhất là chế độ quân nhân tại Việt Nam Cộng Hòa có lý do hết sức chính đáng để tồn tại, dù chỉ trong ngắn hạn, trong khi các chế độ quân nhân và quân phiệt cũng như các chế độ độc tài, độc đảng tại những nơi khác thì không. Ngoại trừ Nam Hàn là nước đang gặp hiểm họa bị xâm lấn một lần nữa từ phía Cộng Sản Bắc Hàn -chứ không thực sự bị xâm lấn kể từ sau khi cuộc Chiến Tranh Triều Tiên chấm dứt vào năm 1953 và sau khi quân đội Mỹ đã lập nên tuyến thép ngăn chặn Cộng Sản Bắc Hàn ngay tại phía Nam vĩ tuyến 38- không có một chế độ quân nhân hay quân phiệt nào tại các nơi khác trên thế giới phải đối phó với một cuộc chiến tranh xâm lược cấp bách mang tính quy mô và được nửa kia của thế giới hết lòng cổ xúy và yểm trợ. Các chế độ quân phiệt tại Thái Lan, Indonesia, Chile, El Salvadore, Nicaragua... bất quá chỉ bị phiến quân và quân nổi dậy đe dọa mà thôi -mà lý do chính yếu của các cuộc nổi dậy tại những nơi đó đôi khi lại nảy sinh từ chính sự hiện hữu của các chế độ độc tài, áp bức đó, vì thế, khi các chế độ đó thôi không hiện hữu thì những cuộc bạo loạn tại các nơi đó cũng tự dưng mất đi. Ðó là chưa kể những chế độ độc tài (dictatorship) tại những nơi như Phi Luật Tân -thời Ferdinand Marcos-là nơi mà chính quyền chỉ cần viện cớ là đất nước đang bị bị phiến quân Cộng Sản (Huks) đe dọa thôi cũng đủ cho chính quyền ra lệnh thiết quân luật, ngưng thi hành mọi quyền tự do, dân chủ trong nước, và cai trị dài dài bằng sắc lệnh.<br /><br /><br />* Lời cuối<br /><br /><br />Nghĩ cho cùng, chế độ quân nhân tại Miền Nam Việt Nam trong thời điểm có cuộc chiến tranh thôn tính Miền Nam của Ðảng Cộng Sản Việt Nam từ miền Bắc là chế độ nếu không hoàn toàn chính đáng trên danh nghĩa thì cũng là một sự cần thiết của lịch sử. Phải biết rằng, xuyên suốt lịch sử Việt Nam, hầu như tất cả các chế độ cai trị ban đầu của các triều đại có trước các nền Ðệ Nhất và Ðệ Nhị Cộng Hòa tại Miền Nam Việt Nam -từ thời các Vua Hùng dựng nước (với các Lạc hầu, Lạc tướng), thời Trưng Nữ Vương, các triều đại của Ngô Vương Quyền, Ðinh Tiên Hoàng, Lê Ðại Hành, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Lê Lợi, Nguyễn Quang Trung, và Nguyễn Gia Long- đều là những chế độ quân nhân, ít nhất cũng dưới thời các vị vua khai sáng triều đại để dựng nước hoặc để giành lại độc lập cho Việt Nam khỏi tay kẻ thù phương Bắc là Trung Hoa. Và dĩ nhiên là các đấng tiên vương của Việt Nam đều không hề là những thành phần quân phiệt mà chính là những vị anh hùng hết sức xứng đáng được toàn dân muôn đời ngưỡng mộ và tôn thờ.<br /><br />Vì các lẽ ấy, nếu cuộc chiến tranh bảo vệ nền tự do, dân chủ tại Miền Nam Việt Nam trước đây được coi là chính đáng thì không có lý do gì mà người Việt Quốc Gia từ trong nước lẫn ở hải ngoại lại quên đi Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu hằng năm. Ngày mai đây, khi Việt Nam trở thành một đất nước thật sự có tự do dân chủ, khi lịch sử cận đại và hiện đại của Việt Nam được viết lại một cách nghiêm chỉnh và khi cuộc chiến tranh Quốc-Cộng được đánh giá đúng mức, Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu phải được coi là một trong những ngày kỷ niệm huy hoàng cả trong quân sử lẫn trong lịch sử dân tộc Việt Nam, không ai hoặc không một thế lực nào có thể làm khác đi được. (V.P.)<br /><br /><br />Ghi chú:<br /><br />(1) Ngay từ dưới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, bên cạnh các Tòa Ðại Biểu Chính Phủ tại Trung Nguyên Trung Phần, Cao Nguyên Trung Phần và Nam Phần Việt Nam do các nhân vật dân sự cầm đầu, vị tổng tư lệnh Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa (kiêm Bộ Trưởng Quốc Phòng) cũng đã phải chỉ định các tướng lãnh quân đội làm tư lệnh các quân khu liên hệ tại các vùng để trực tiếp điều hành công cuộc bảo vệ trị an trước nguy cơ Cộng Sản Bắc Việt quyết tâm thôn tính Miền Nam tự do sau khi cuộc tổng tuyển cử để thống nhất hai miền đất nước được dự trù mở ra tại Bắc và Nam Việt Nam vào năm 1956 đã không được thực hiện. Trên thực tế, Tổng Thống Diệm đã giao toàn quyền quyết định về quân sự cho các vị tư lệnh quân khu liên hệ vì ông biết rõ các nhân vật dân sự trong chính phủ không đủ khả năng thi hành sứ mạng này.<br /><br />(2) Bản Tuyên Cáo của Quốc Trưởng, Chủ Tịch Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp và Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa, được công bố ngày 11 Tháng Sáu năm 1965, có đoạn viết:<br /><br />“Sau khi duyệt lại tình trạng ngày một khẩn trương của đất nước, sau khi đã xét lại và xác nhận rằng: những vơ cấu và thể chế Quốc Gia hiện tại không còn phù hợp với tình thế... Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa, Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa đồng thanh quyết định long trọng trao trả lại cho Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa trách nhiệm và quyền lãnh đạo quốc gia đã được Hội Ðồng Quân Lực ủy thác cho chúng tôi... Yêu cầu toàn thể đồng bào các giới không phân biệt giai tầng, địa phương, đảng phái và tôn giáo, ủng hộ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong việc lãnh đạo toàn Quân và toàn Dân đúng theo tinh thần của Cách Mạng 1.11.1963.”<br /><br />(3) Theo các số liệu chính thức, sau khi công cuộc “Việt Nam Hóa Chiến Tranh” hoàn tất vào cuối năm 1973, Hoa Kỳ đã cung cấp cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 640,000 khẩu súng trường M-16, 34,000 súng phóng lựu M-79, 40,000 máy truyền tin, 20,000 xe vận tải và 56 chiến xa hạng trung M-48. Không Lực Việt Nam Cộng Hòa nhận được 200 khu trục và oanh tạc chiến đấu cơ, bao gồm khu trục cơ A-1 Skyraider, oanh tạc cơ A-37 và phản lực chiến đấu cơ F-5 cùng với 30 phi cơ võ trang AC-47 và 6,000 vận tải cơ -trong số đó mộ số được biến cải thành phi cơ “Hỏa Long” như AC-119 và AC-123- cộng với 500 trực thăng các loại cùng một số phi cơ thám thính gồm loại OV-10 Bronco và các “máy bay bà già“L-19 (Vào lúc cao điểm của cuộc Chiến Tranh Việt Nam, khi có khoảng 500,000 binh sĩ Mỹ tham chiến tại Miền Nam Việt Nam, các lực lượng Hoa Kỳ đã sử dụng tới 3,000 trực thăng đủ loại). Mặc dù số lượng vũ khí nhận được có vẻ lớn lao như thế, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, về mặt trang bị, vẫn còn kém thua quân đội Hoa Kỳ nhiều lắm, và nhất là quân số bị thiếu hụt so với quân số của Cộng Sản Bắc Việt là đạo quân đông đảo đứng vào hàng thứ 5 trên thế giới lúc bấy giờ -chưa kể số quân du kích của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vẫn cùng họ tham gia tấn công tại Miền Nam Việt Nam (Wikipedia, June 8, 2007).<br /><br />(4) Tháng Năm năm 1970, các lực lượng thuộc Quân Ðoàn 3 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chiến thắng lớn trong cuộc hành quân “Toàn Thắng 43,” vượt biên tấn công vào Căm Bốt, phá hủy nhiều kho vũ khí, đạn dược và lương thực cùng thuốc men của các lực lượng Cộng Sản từ Miền Bắc đưa vào cất giấu tại vùng biên giới Việt-Miên nhằm tiếp trợ cho nỗ lực chiến tranh đánh chiếm Miền Nam Việt Nam của họ. Một cuộc hành quân quy mô khác của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vào Tháng Giêng năm 1971, mệnh danh Lam Sơn 719, tấn công thẳng vào hệ thống Ðường Mòn Hồ Chí Minh ngay dưới Khu Phi Quân Sự và trên Ðường Số 9 tại Nam Lào, tuy phải chịu nhiều tổn thất nhân mạng do gặp địch kháng cự mạnh, vẫn hoàn thành mục tiêu phá vỡ hệ thống hậu cần tiếp tế cho các lực lượng Cộng Sản đang mở các cuộc tấn công phá hoại tại Miền Nam Việt Nam. Ðiều hiển nhiên là các thành tựu này của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã khiến cho các lực lượng Cộng quân đang tham chiến bắt đầu nao núng, và họ thấy cần phải có thêm thời gian để tái bổ sung quân số cũng như tiếp liệu cho các lực lượng đang dần dần bị kiệt quệ của họ. Hệ quả chính trị trông thấy của các chiến thắng quân sự mới do Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tạo nên là giới lãnh đạo Cộng Sản tại Hà Nội đã phải khởi sự đàm phán nghiêm chỉnh hơn trong cuộc Hòa Ðàm Ba Lê lúc gió đang diễn tiến tại thủ đô của Pháp nhằm tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho cuộc Chiến Tranh Việt Nam.<br /><br />(5) Tháng Mười Hai năm 1974, sau khi Hoa Kỳ đã hoàn tất việc rút lui về mặt quân sự ra khỏi Miền Nam Việt Nam, Tổng Bí Thư Lê Duẩn của Ðảng Cộng Sản Việt Nam tuyên bố: “Bọn Mỹ đã rút đi... đây là biến chuyển đánh dấu thời cơ của chúng ta.”<br /><br />(6) Theo Wikipedia, truy cập ngày 14 Tháng Sáu năm 2008, trong cuộc chiến đấu để bảo vệ tự do, dân chủ cho Miền Nam Việt Nam, các chiến sĩ thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã cống hiến cho đất nước những hy sinh vô cùng to lớn và cao cả mà cho tới nay vẫn chưa có gì đền đáp nổi. Theo các con số phỏng định, vào lúc kết thúc cuộc Chiến Tranh Việt Nam (1959-1975), Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có 250,000 chiến sĩ bỏ mình và Quân Ðội Hoa Kỳ có 58,000 quân nhân hy sinh. Không có con số chính thức cho biết có bao nhiêu chiến binh Cộng Sản đã tử trận trong cuộc chiến, mặc dù con số này ít nhất cũng phải cao hơn gấp ba lần con số tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa, bởi vì họ thường phải hứng chịu hỏa lực ghê gớm của các lực lượng Ðồng Minh và Việt Nam Cộng Hòa, trong đó phải kể tới những cuộc giội bom trải thảm của các pháo đài bay chiến lược B-52, và cũng vì các cấp chỉ huy của họ, kể cả danh Tướng Võ Nguyên Giáp, vẫn ưa dùng chiến thuật biển người có tính cách thí quân trong những cuộc tấn công. (V.P.)<br /> </strong>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-75079824932760308042008-06-17T14:40:00.000-07:002008-12-11T03:12:35.210-08:00Anh Hung Va Chien Bai<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi6cmAcNdSE2mx8Vye_O2aB0zWaY-FpFbSz1xrCgx1qu3jGYn7e0zggayD1bSRi_zqvtX7EI7yDueVqsPjRCp2K0QhgKDKl0K42WZcjg0PJcYuoRTSgXWyxPmkVaKiSVU13sNA8wkuyVfo/s1600-h/175mm.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi6cmAcNdSE2mx8Vye_O2aB0zWaY-FpFbSz1xrCgx1qu3jGYn7e0zggayD1bSRi_zqvtX7EI7yDueVqsPjRCp2K0QhgKDKl0K42WZcjg0PJcYuoRTSgXWyxPmkVaKiSVU13sNA8wkuyVfo/s400/175mm.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5212971913725287954" /></a><br /><strong>Nguyễn Kỳ Phong <br />Chuyện Hai Người Lính <br />Ðọc Vietnam’s Forgotten Army: <br />Heroism and Betrayal in the ARVN <br /> <br />Vietnam’s Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN <br />By Andrew Wiest. <br />New York University Press, 2007, 368 pages<br /> <br />Một Quân Ðội Bị Bỏ Quên: Anh Hùng và Bội Phản Trong Quân Ðội VNCH, là một cuốn sách viết về hai người lính và binh nghiệp của họ trong cuộc chiến Việt Nam. Hai người lính — trong trường hợp này là hai sĩ quan — Trung tá Phạm Văn Ðính và Thiếu tá Trần Ngọc Huế. Trung tá Ðính và Thiếu tá Huế, hai ngôi sao sáng đang lên của quân lực VNCH. Hai người đang xã thân chiến đấu chống lại một chủ nghĩa mà họ thù ghét từ lúc mới lớn. Nhưng vào những giờ cuối cùng trong đời binh nghiệp, hai người chọn hai lối đi khác nhau: Thiếu tá Huế chiến đấu đến viên đạn cuối cùng rồi bị bắt làm tù binh; Trung tá Ðính, dưới áp lực của địch, đầu hàng để khỏi bị bắt làm tù binh. <br /><br /><br />Tình tiết trong Một Quân Ðội Bị Quên giống như một cuốn tiểu thuyết, nhưng tất cả đều sự thật; đều có thể kiểm chứng được. Ðường binh nghiệp của Tr/T Ðính và Th/T Huệ gần như đi song song với nhau: cả hai là sĩ quan tác chiến; đều là chỉ huy trưởng những đơn vị vang tiếng của quân lực VNCH. Và đoạn cuối binh nghiệp của cả hai cũng giống nhau, khi bị chấm dứt trong hai trận đánh khốc liệt nhất của chiến tranh Việt Nam: Th/T Huế trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 năm 1971; Tr/T Ðính vào Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 1972. <br /><br /><br />Tr/T Phạm Văn Ðính tốt nghiệp khóa 9, Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức; T/T Trần Ngọc Huế, khóa 18, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Ðà Lạt. Ra trường hai người về phục vụ ở miền Trung — nơi sanh ra và lớn lên của Huế và Ðính. Ðính phục vụ ở tiểu đoàn 3/trung đoàn 3/ sư đoàn 1 Bộ Binh; Huế, TÐ1/ Tr.Ð1/ SÐ1BB. Sau vài năm nếm mùi binh lửa ở vị trí thấp nhất của một sĩ quan mới ra trường, cả hai được hoán chuyển về đơn vị mới, với nhiều cơ hội thăng tiến hơn. Ðầu năm 1965, Thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân, tư lệnh sư đoàn 1BB, quyết định thành lập một đại đội xung kích, có khả năng phản ứng nhanh để đáp ứng những trường hợp khẩn cấp ở Vùng I. Ðại đội này còn phải có khả năng trinh sát như một đại đội thám báo/ viễn thám của sư đoàn. Ðại đội tân lập đó được đặt tên Hắc Báo, nằm dưới quyền chỉ huy trực tiếp của tư lệnh sư đoàn. Và Trung úy (lên Đại úy vài tháng sau đó) Ðính được danh dự chọn làm Đại đội trưởng đầu tiên. <br /><br /><br />Ðại đội Hắc Báo của sư đoàn 1BB có lẽ là một trong những đơn vị cấp đại đội được nhắc đến tên nhiều nhất trong quân lực VNCH. Thành hình vào tháng 2-1965, đại đội có năm trung đội tác chiến (năm 1968 có sáu trung đội) ; có một đơn vị không vận cơ hữu ứng trực 24 tiếng đồng hồ một ngày, gồm năm trực thăng chuyên chở và hai trực thăng võ trang yểm trợ. Ðại đội có một toán cố vấn Mỹ và Úc Ðại Lợi đi kèm. Sự có mặt của các cố vấn ở cấp đại đội cho thấy sự quan trọng của đơn vị này: thông thường cố vấn chỉ có mặt ở cấp tiểu đoàn trở lên. Từ lúc thành hình cho đến ngày VNCH thất thủ, đại đội Hắc Báo chưa bao giờ thất bại với những công tác giao phó. Từ những công tác giải cứu phi công bị rớt trong lòng đất địch, cho đến những cuộc đột kích vào những binh trạm của CSBV ở thung lũng A Shau, ở Co Roc, hay xa hơn bên kia biên giới Lào. Ðại tướng Creighton Abrams, tư lệnh MACV, nhiều lần nhắc đến tên đại đội Hắc Báo trong những buổi họp tham mưu cuối tuần (ghi lại trong The Abrams Tapes, của Lewis Sorley). Ít có một đại đội nào của quân lực VNCH có danh tiếng vang tận đến Bộ Quốc Phòng Mỹ ở Hoa Thịnh Ðốn như đại đội Hắc Báo. Cuối năm 1971, trong cao điểm của chương trình Việt Nam Hóa, phó giám đốc Nha Nghiên Cứu và Biến Chế của Bộ Quốc Phòng, Leonard Sullivan — đang làm việc trực tiếp cho Bộ trưởng quốc phòng Melvin Lair — sang Việt Nam nghiên cứu một kế hoạch ít tốn kém để ngăn chận đường xâm nhập Hồ Chí Minh. Trong lần viếng thăm Trung tướng Hoàng Xuân Lãm và Thiếu tướng Phạm Văn Phú vào trung tuần tháng 10-1971, Sullivan cho biết Bộ trưởng đã Laird thông báo là Không Quân Hoa Kỳ sẽ không còn tài chánh để tiếp tục dội bom ngăn chận bằng B-52 vào năm tới. Thay vào đó, bộ quốc phòng Mỹ đề nghị một phương cách ngăn chận khác là dùng những đại đội như đại đội … Hắc Báo để đột kích những binh trạm của CSBV trên đuờng mòn Hồ Chí Minh! Tiếp theo, Sullivan đề nghị quân đoàn I nên lập thêm vài đại đội Hắc Báo nữa và đưa vào Vùng II để đột kích những binh trạm ở vùng ba biên giới Việt-Miên-Lào. Nhưng hai vị tư lệnh quân đoàn và sư đoàn cho biết họ chỉ có thể thực hiện lời yêu cầu nếu có lệnh từ Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Hơn nữa, nhân sự của đại đội Hắc Báo không phải dể có. Trung tá Nguyễn Xuân Lộc, trưởng Phòng 2 Sư Ðoàn 1BB, cho biết nhân sự của Hắc Báo đến từ hai đại đội thám báo của trung đoàn 3 và 54. Nghĩa là hai trung đoàn này không có đại đội thám báo như hai trung đoàn 1 và 2 của SÐ 1BB, để có chổ cho nhân sự của đại đội Hắc Báo. Tóm lại, lập ra một đại đội như đại đội Hắc báo không phải là chuyện đơn giản (Ðọc thêm: Ðiện tín của Trung tướng Welborn G. Dolvin, tư lệnh Quân Ðoàn XXIV, gởi Đại tướng Creighton Abrams, tư lệnh MACV. Secret DNG 2997 Eyes Only, 20 October 1971. Subject: Visit to MR 1 of Mr. Leonard Sullivan; về vai trò của Phó giám đốc Leonard Sullivan, đọc Bernard C. Nalty, The War Agaisnt Truck.). Liên hệ và thành tích của Ðính với đại đội thiện chiến và lừng danh như Hắc Báo, làm độc giả khó giải thích được hành động đầu hàng CSBV sau này của ông. <br /><br /><br />Trong thời gian Ðính chỉ huy đại đội Hắc Báo, Trung úy Huế, sau khi tốt nghiệp khoá sình lầy ở Mã Lai Á, được về làm sĩ quan tùy viên cho Tướng Chuân ở Sư Ðoàn 1BB. Cùng phục vụ cho một vị tư lệnh, Ðính và Huế thường gặp nhau, tìm hiểu về nhau. Sau những biến động liên tục ở miền Trung năm 1966; sau nhiều lần tư lệnh của Quân Ðoàn I và Sư Ðoàn 1 BB bị thay đổi, nhiệm sở của Ðính và Huế cũng bị thay đổi theo, nhưng thay đổi theo chiều hướng khả quan. Khi Chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng về coi SÐ 1 BB, ông đề bạt Ðính về làm tiểu đoàn trưởng TÐ 2/ Tr.Ð 3, kiêm luôn quận trưởng Quảng Ðiền. Nhiệm vụ của Th/T Ðính lúc đó là vừa đáng giặc, vừa bình định. Về phần Huế, dù có chọn lựa để được thuyên chuyển một đơn vị không tác chiến, để hưởng thụ một đời sống gia đình (vừa mới lấy vợ), anh xin đổi về một đơn tác chiến: đại đội Hắc Báo. Về làm Đại đội phó Hắc Báo được chừng hai tháng thì Tướng Trưởng bổ nhiệm Huế làm Đại đội trưởng, thay vào chổ của Ðính. Một lần nữa, Huế và Ðính lại làm việc chung cho một ông thầy, cùng ở chung một sư đoàn. Sự liên hệ, quen biết liên tục đó làm tăng thêm ngỡ ngàng về sau, sau khi hai người trở thành kẻ thù — dù kẻ thù trong yên lặng. <br /><br /><br />Trong hai năm 1968 và 1969, phục vụ ở Sư Ðoàn 1BB, đường binh nghiệp của Tr/T Ðính và Th/T Huế được thăng hoa. Hai đơn vị của Huế và Ðính có công tiếp cứu bộ tư lệnh sư đoàn 1 BB của Tướng Trưởng, và một phần nào đó, có công giải tỏa thành nội và dựng lại lá cờ VNCH ở kỳ đài Ðại Nội vào trận Mậu Thân 1968. Dựa vào những gì hai nhân vật chánh trong tác phẩm kể lại, TÐ2/ 3 của Ðính là đơn vị triệt tiêu những điểm kháng cự cuối cùng của cộng sản ở kỳ đài; và đại đội Hắc Báo là đơn vị bảo vệ bộ tư lệnh Sư Ðoàn 1 BB trong giờ phút kịch liệt nhất của trận Mậu Thân. Cũng trong trận này, liên hệ của hai người gắn chặc nhau hơn khi tiểu đoàn 2/3 và đại đội Hắc Báo cùng được giao nhiệm vụ chung là giải tỏa một góc chiến trường của thành nội Huế. <br />Năm 1969. Trần Ngọc Huế bây giờ mang Thiếu tá, rời đại đội Hắc Báo về coi tiểu đoàn 2/2; trong khi đó Ðính đã là Trung tá, vẫn còn coi tiểu đoàn 2/3. Năm 1969 tiểu đoàn của Tr/T Ðính liên quan đến một trận đánh mãnh liệt, nhưng không được bao nhiêu báo chí nhắc đến: Trận Ðộng Ấp Bia — mà báo chí và các quân nhân tham dự đặt cho một tên rất biểu tượng là Ðồi Hamburger Hill (Thịt Bằm). Theo báo chí và phần lớn sách sử về chiến tranh Việt Nam, trận Hamburger Hill kết thúc khi lính của một trong ba tiểu đoàn Nhảy Dù Mỹ — sau hơn 10 ngày giao chiến ác liệt — triệt tiêu những lô cốt cuối cùng của trung đoàn 29 CSBV trên đỉnh đồi cao 937 thước và làm làm chủ ngọn đồi. Nhưng theo tác giả Wiest, và theo một số sử liệu chúng ta có thể tìm được, thì tiểu đoàn 2/ trung đoàn 3 của Trung tá Ðính là đơn vị lên được đỉnh đồi trước nhất. Trận đánh này, lúc khởi đầu, chỉ có một tiểu đoàn Nhảy Dù Mỹ phục trách, nhưng sau hơn một tuần quần thảo, bộ tư lệnh Sư Ðoàn 101 Nhảy Dù quyết định lấy ngọn đồi bằng mọi giá. Tướng Trưởng, trong tinh thần hợp tác Việt-Mỹ, gởi tiểu đoàn 2/3 của Trung tá Ðính để phụ lực vào cuộc tấn công cuối cùng. Bốn tiểu đoàn đánh bốn hướng từ chân đồi lên, và lính của tiểu đoàn 2/3 có mặt trên cao điểm của đỉnh đồi trước nhất. Trong tác phẩm, tác giả Wiest trích lời của Đại tướng Abrams trong buổi họp tham mưu ở MACV ngày 24 tháng 5-1969. Tướng Abrams nói tuy các cơ quan truyền thông nói là lính Nhảy Dù Mỹ chiếm được ngọn đồi, nhưng ông có tin riêng nói lính VNCH là đơn vị được vinh dự đó (Tác giả Wiest trích lời của Abrams trong The Abrams Tapes của tác giả Lewis Sorley. Cũng trong buổi họp đó, Tướng Abrams có nhắc lại chuyện đại đội Hắc Báo và trận đánh chung quanh kỳ đài thành nội Huế năm 1968). Ðiều đáng tiếc, tác giả Wiest kết luận, là đơn vị VNCH không được tuyên dương như sự thật đã xảy ra. <br /><br /><br />Sau trận Hamburger Hill Tr/T Ðính về làm sĩ quan hành quân cho bộ tư lệnh Sư Ðoàn 1BB Tiền Phương (Ðây là một đơn vị gồm trung đoàn 2/ SÐ1BB và một lữ đoàn TQLC VNCH, được lập ra để trám vào chổ của những đơn vị TQLC Mỹ rút đi trong chương trình Việt Nam Hóa. Ðơn vị này nằm dưới quyền chỉ huy của Đại tá Vũ Văn Giai, Tư lệnh phó sư đoàn). Thiếu tá Huế thì vẫn coi tiểu đoàn 2, trung đoàn 2, đóng quân sát vùng giới tuyến. Là một đơn vị nằm dưới quyền điều khiển của SÐ 1 BB Tiền Phương, con đường binh nghiệp của Huế và Ðính lại gặp nhau. Tháng 5-1970, Tướng Trưởng yêu cầu Đại tá Giai đưa Trung tá Ðính về trung đoàn 54/ SÐ1BB với chức vụ trung đoàn phó. Trong khi đó Huế và tiểu đoàn 2/2 vẫn hoạt động ở hướng bắc Ðông Hà. <br />Ở chương 4 của tác phẩm, chương nói về thành tích của Huế và Ðính trong năm 1968, tác giả Andrew Wiest đặt tên là, “Thời của Những Người Hùng.” <br /><br /><br />Chương 4 ghi lại một số dữ kiện để đưa độc giả đến hai chương nồng cốt 8 và 9, làm tiền đề cho quyển sách: anh hùng và bội phản. Chương 8 “Shattered Lives and Broken Dreams: Operation Lam Son 719,” nói về giấc mơ chiến thắng của Huế bị tan vỡ— và những mảnh vụng của cuộc đời theo sau đó. Và chương 9, “The Making of a Traitor,” nói về sự phản bội của Trung tá Ðính khi ông đầu hàng cộng sản vào năm 1972 trong trận Mùa Hè Ðỏ Lửa. Ở chương này, tác giả Wiest đã cố gắng giải thích những sự kiện và hoàn cảnh chung quanh quyết định đầu hàng của Tr/T Ðính. <br /><br /><br />Giấc mơ chiến thắng của Thiếu tá Trần Ngọc Huế tan vỡ vào mùa Xuân năm 1971 ở Hạ Lào. Ðầu tháng 2-1971, khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh qua những căn cứ hậu cần của CSBV trên đường xâm nhập Hồ Chí Minh xảy ra, đơn vị của Th/T Huế vẫn còn hoạt động ở vùng phi quân sự, và trung đoàn 54 của Tr/T Ðính vẫn lo an ninh ở phía nam cố đô Huế. Mặc dù Sư Ðoàn 1BB là một trong ba lực lượng chính của cuộc hành quân, trong thời gian đầu BTL Sư Ðoàn 1BB chỉ xử dụng hai trung đoàn. Nhưng đến cuối tháng 2, tình hình thay đổi bất lợi ở mặt trận Hạ Lào. Sau cuộc hội thảo với Tổng thống Thiệu ở Sài Gòn ngày 28 tháng 2, Tướng Hoàng Xuân Lãm quyết định thay Sư Ðoàn Nhảy Dù bằng Sư Ðoàn 1BB, làm đơn vị chính đánh vào Tchepone. Ngày 2 tháng 3 đơn vị của Huế, TÐ 2/2; TÐ 3/2; và một ban tiền trạm của trung đoàn 4 được trục thăng vận đến Khe Sanh để chuẩn bị nhảy vào Tchepone. Sau khi các tiểu đoàn của trung đoàn 1 liên tiếp thiết lập các cứ điểm dây chuyền Lolo, Liz và Sophia ở hướng nam dẫn về Tchepone để chuẩn bị cho mục tiêu chánh. Ngày 6 tháng 3, TÐ 2 và 3 của trung đoàn 2 nhảy vào Tchepone theo đúng lịch trình của kế hoạch. Hơn 120 trực thăng đưa hai tiểu đoàn 2/2 và 3/2 vào cứ điểm — một bãi đáp trực thăng — có tên là Hope ở hướng bắc của Tchepone. Chỉ gặp một vài kháng cự nhỏ sau khi đổ quân, tiểu đoàn của 2/2 của Th/T Huế bung ra lục soát và tiến vào Tchepone. Ðến ngày 8, tiểu đoàn 2/2 báo cáo họ đã nằm bên trong thị trấn. Sau hai ngày lục soát, thay vì hai tiểu đoàn sẽ được trực thăng vận ra khỏi Tchepone như kế hoạch nguyên thủy, Tướng Lãm ra lệnh cho tiểu đoàn của Huế tiến sâu về phía nam, vượt qua sông Xe Pone, rồi hành quân lục soát về hướng các cứ điểm Sophia, Liz, và LoLo. Tại đây họ sẽ nhập chung với quân của trung đoàn 1, rồi cả hai trung đoàn sẽ được trực thăng vận về khu vục đường 914 ở để phá hủy binh trạm 33. Sau khi hành quân ở đó từ bảy đến mười ngày, Sư Ðoàn 1 BB sẽ theo thứ tự rút về biên giới Việt Nam. Tại sao lại có sự thay đổi trái ngược như vậy? Tại sao không “nhảy vào Tchepone ... đái một cái rồi nhảy ra …” như những gì báo chí đã viết về mục đích của cuộc đột kích vào Tchepone như chúng ta thường đọc qua? Theo tác giả Wiest, phấn khởi vì những chống trả yếu ớt của địch ở chung quanh Tchepone, Tướng Lãm quyết định kéo dài nhiệm vụ của trung đoàn 1 và 2 thêm 10 ngày nữa. Ðây không phải là ý kiến riêng của Tướng Lãm. Những tài liệu giải mật sau này cho thấy, ba ngày sau khi quân VNCH đặt chân xuống Tchepone, Tướng lãm bay về Sài Gòn họp với tổng thống Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên. Trong buổi họp ngày 9 tháng 3, Tổng thống Thiệu muốn TQLC và Sư Ðoàn 1BB bỏ ra bảy đến 10 ngày hành quân ở khu vực đường 914/ binh trạm 33, một vị trí khoảng chín cây số tây nam căn cứ Bản Ðông/ A Loui trên đường 9 (Ðiện văn, Top Secret MAC 02455 Eyes Only, Đại tướng Abarms gởi Trung tướng Sutherland, 9 March 1971; điện văn, Top Secret QTR 0306 Eyes Only, Trung tướng Sutherland gởi Đại tướng Abarms, 10 March 1971). <br /><br /><br />Ngày 11, từ bải đáp Liz, tiểu đoàn 2/2 của Huế được trực thăng vận đến bải đáp Brown ở khu vực đường 914. Tại đây tiểu đoàn lục soát về phía nam cho đến ngày 14. Nhưng ngày 14 tháng 3 cũng là ngày địch quân đồng loạt phản công trên mọi hướng. Ðến hôm đó, CSBV đã tụ đủ quân để tấn công liên tục vào tất cả căn cứ hỏa lực hay bãi đáp ở phía nam đường 9. Ở phía nam đường 9 — mặt trận của Sư Ðoàn 1 BB và Lữ Ðoàn 147 TQLC — cộng quân có Sư Ðoàn 2 và 324B, cộng với hai binh trạm (một binh trạm tương đương một trung đoàn), một số quân hơn là đủ để ngăn chận mọi kế hoạch rút quân của VNCH. Từ sáu giờ sáng ngày 14, cứ điểm LoLo và chung quanh phía nam Tchepone, bốn tiểu đoàn của trung đoàn 1 bị CSBV tấn công liên tục. Ðến ngày 17 trung đoàn quyết định phải di tản. Tiểu đoàn 4/1 ở lại chận hậu cho ba tiểu đoàn kia được trực thăng vận khỏi mặt trận. Khi đến lượt TÐ 4/1 di tản, trung đoàn phải yêu cầu B-52 đánh bom cách vị trí tiểu đoàn chừng 500 mét (so với khoảng an toàn thông thường là 1.000-1.500 mét) để ngăn chận những đợt tấn công của cộng quân, hầu có thì giờ lên trực thăng. Nhưng tiểu đoàn chỉ có 83 quân nhân thoát khỏi LoLo; tiểu đoàn phó và tiễu đoàn trưởng thì ở lại LoLo vĩnh viễn. Cùng ngày, ở khu vực đường 914, bốn tiểu đoàn của trung đoàn 2 cũng chuẩn bị rời mặt trận. Ngày 18, TÐ 5/2 được bốc về Khe Sanh trước, trong khi ba tiểu đoàn 2, 3, và 4 được lệnh di chuyển theo hướng đông về cứ điểm Delta I để tiếp tục được di tản. Trên đường về Delta I, ba tiểu đoàn chạm địch liên tục. Khi biết không thể tiến về điểm hẹn ở Delta I, Huế cho tiểu đoàn nằm lại tại một cao điểm và dàn quân ra chuẩn bị tử thủ. Tối đêm 19, cộng quân tấn công bằng pháo và hỏa tiễn trước, tiếp theo đó là quân bộ binh có trang bị súng phun lữa ồ ạt xung phong. Trưa ngày 20, trung đoàn xin bộ tư lệnh tiền phương ở Khe Sanh, bằng mọi cách phải cho trực thăng phải hạ cánh di tản ba tiểu đoàn còn lại trước khi họ bị tiêu diệt. Nhưng với gần 1,400 phi vụ trực thăng võ trang; 11 phi vụ B-52; và 270 phi vụ oanh tạc chiến thuật trong ngày, hỏa lực đó chỉ đủ giảm áp lực của địch đủ để trực thăng đáp xuống bốc được tiểu đoàn 3. Tiểu đoàn 2 và 4 phải chờ những phi vụ di tản ngày hôm sau. Nhưng ngày ngày hôm sau là một ngày quá trễ cho Huế và những quân nhân còn lại. Trong cao điểm của những cuộc tấn công đêm đó, Huế bị trúng đạn súng cối và ngất lịm. Trong lúc loa phóng thanh của địch vang dội những lời kêu gọi đầu hàng, bộ chỉ huy sư đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn 2/2 phải đánh mở đường máu để di tản. Khi lính của Huế chuẩn bị đến khiêng ông đi, T/T Huế từ chối, biết rằng mình sẽ là một gánh nặng cho toán quân rút đi. Huế ra lệnh cho họ đánh mở đường máu rời mặt trận. Tiểu đoàn phó Nguyễn Hữu Cước chào vĩnh biệt Huế trước khi dẩn toán quân 60 người còn lại đánh mở đường máu rút quân. Vài phút sau, Huế trở thành một trong những tù binh cao cấp bị bắt tại mặt trận Hạ Lào. (Theo lời Th/T Huế kể lại, sau khi thành công nhảy vào Tchepone, ông được đặc cách vinh thăng Trung tá. Chuẩn tướng Phạm Văn Phú trực tiếp chuyển tin đó dến ông. Sau khi bi bắt làm tù binh, Th/T Huế khai chức vụ ông là Thiếu tá. Nhưng sĩ quan thẩm vấn của CSBV nói ông đã là Trung tá, theo những gì họ nghe được trên hệ thống truyền tin của loan truyền ngoài mặt trận của VNCH) <br /><br /><br />Ở bên kia biên giới, Tr/T Ðính theo dõi tất cả diễn biến. Trong những ngày cuối cùng của hành quân Lam Sơn 719, Ðính đưa tiểu đoàn 2 của trung đoàn 54 đến Khe Sanh để yểm trợ và đóng cửa căn cứ Khe Sanh. Nhìn những chiến tích — và chiến bại — của Lam Sơn 719, Ðính suy nghĩ nhiều về một cuộc chiến không tương lai, và thân phận của những quân nhân trong cuộc chiến. Cảm nghĩ đó, tác giả Wiest thuật lại theo những gì Tr./T Ðính kể. <br />Trong chương 9, “The Making of A Traitor,” tác giả Wiest viết sơ qua về cuộc tổng tấn công của CSBV vào mùa Hè năm 1972, nhưng tác giả viết sâu hơn khi nói về hoàn cảnh chung quanh việc Tr./T Ðính đầu hàng. Dựa vào những cuộc phỏng vấn với các cố vấn của trung đoàn và sư đoàn có mặt tại chiến trường; dựa vào các nhân vật — những sĩ quan trong ban tham mưu của trung đoàn 56/SÐ 3BB — còn sống, như Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, Trung tá Trung đoàn phó Vĩnh Phong; Đại úy Nguyễn đình Nhu, trung đoàn 56; Trung úy Mai Xuân Tiểm, ban 3 trung đoàn; Thiếu tá Tôn Thất Mãn, tiểu đoàn trưởng TÐ 1/56. ... Với những lời kể của nhân chứng, Andrew Wiest viết lại hoàn cảnh đưa đến quyết định đầu hàng tập thể của trung đoàn 56 tại căn cứ Carroll. Nhưng những gì Tr./T Ðính thuật lại sau cuộc chiến có phải là những lý do để chạy tội? Ðính và hơn 600 quân nhân của trung đoàn 56/ SÐ3BB phải đầu hàng vì không còn lối thoát, vì bị bỏ rơi, hay chính Tr./T Ðính là người đã vẽ cho họ một bức tranh bi đát, rồi thuyết phục họ đầu hàng? Mỗi độïc giả sẽ là một chánh án đối với Tr./T Ðính, sau khi thẩm định sự kiện và hoàn cảnh được trình bày trong sách. Người điểm sách này xin nói trước: trước khi đọc tác phẩm Vietnam’s Forgotten Army, người viết đã có một định kiến về hành động đầu hàng của Tr./T Ðính: đó là hành động của một sĩ quan chủ bại, chưa đánh đã chạy. Và sau khi đọc tác phẩm, người viết vẫn không hoàn toàn đồng ý với lý do đầu hàng của ông Trung tá: Thông cảm? Có. Chấp nhận? Không! <br /><br /><br />Gần nửa năm sau cuộc hành quân Lam Sơn 719, để gia tăng quân số thay vào khoảng trống của các đơn vị Mỹ rút quân, tháng 10-1971 bộ tổng tham mưu thành lập Sư Ðoàn 3 Bộ Binh. Sư đoàn tân lập này chỉ có một trung đoàn làm rường cột chánh, hai trung đoàn còn lại là lính thuyên chuyển từ các đơn vị khác, tân binh tuyển mộ từ các lực lượng Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ, hay một đôi khi là những quân nhân tòng phạm được ân xá để trở lại quân ngũ. Trong ba trung đoàn 2, 56 và 57 của Sư Ðoàn 3BB, chỉ có trung đoàn 2 lấy ra từ Sư Ðoàn 1BB, là đơn vị có kinh nghiệm chiến trường lâu nhất. Với một sư đoàn như vậy, không vị sĩ quan nào muốn nhận chức sư đoàn trưởng. Sau cùng, chuẩn tướng Vũ Văn Giai nhận chức tư lệnh sư đoàn. Theo lời ông kể, ông là một “tư lệnh kém may mắn của một sư đoàn không không ai muốn nhận.” Và khi tìm sĩ quan về chỉ huy trung đoàn, tướng Giai tìm những thuộc viên cũ đã làm việc chung với ông: Tr/T Ðính được mời về làm chỉ huy trưởng trung đoàn 56. <br /><br /><br />Cuối năm 1971 đầu năm 1972, quân đội Hoa Kỳ đã rút khỏi Vùng I. Còn lại chỉ là những đơn vị tiếp vận và cố vấn. Hơn 80 ngàn lính TQLC Hoa Kỳ có mặt ở Vùng I vào giữa năm 1969, bây giờ chỉ còn khoảng 500. Ðể phòng thủ năm tỉnh của Vùng I, tướng Hoàng Xuân Lãm cho SÐ 1BB giữ phía tây thành phố Huế; SÐ 2BB giữ ba tỉnh ở phía nam; và sư đoàn yếu nhất, SÐ 3 BB, được giao nhiệm vụ trấn giữ hai hướng bắc và tây Quảng Trị. Trung đoàn 57 phụ trách bên phải quốc lộ 1, hướng bắc Cửa Việt; trung đoàn 2, bên trái quốc lộ 1, bắc Cam Lộ; và, trung đoàn 56, phía nam đường 9, gần những căn cứ Khe Gió, Carrol, Mai Lộc. Ðể yểm trợ và phụ giúp thêm cho SÐ 3BB, Vùng I cho hai lữ đoàn TQLC đóng ở những tiền đồn dọc theo vòng cung tây nam đường 9, gần biên giới Lào, như là vòng đai phòng thủ đầu tiên cho trung đoàn 56. Vì trung đoàn 56 còn mới, để tiếp tục huấn luyện các tiểu đoàn tân lập của Tr./Ð 56, và tránh tình trạng đóng quân ù lì một chổ, tướng Giai cho thay đổi vị trí của hai trung đoàn 2 và 56 theo chu kỳ: trung đoàn này đến vùng trách nhiệm của trung đoàn kia, và ngược lại. Ðó là lối bày binh và trận liệt ở Vùng I khi CSBV đồng loạt tấn công — và CSBV tấn công vào ngay thời điểm bất ngờ và nguy hiểm nhất. <br /><br /><br />Chín giờ sáng ngày 30 tháng 3-1972 Tr./Ð 2 và 56 hoán chuyển trại và vùng trách nhiệm. Tr./Ð 56 của Ðính từ căn cứ C2 ở bắc Cam Lộ di chuyển về hướng nam, thay thế Tr/Ð 2 ở căn cứ Carroll, căn cứ hỏa lực Fuller và Khe Gió. Mười một giờ ba mươi, khi đoàn quân còn đang di chuyển, một số chưa kịp qua sông (sông Cam Lộ, trên đầu đường 9), chỉ có một đại đội tác chiến và đại đội chỉ huy vừa vào trong căn cứ Carroll thì địch quân tấn công. Pháo 130 ly của địch bắn tràn ngập các mục tiêu. Không phải chỉ có Tr./Ð 2 và 56 bị tấn công, tất cả các căn cứ trên toàn Quảng Trị bị tấn công. Ở hướng bắc SÐ 308 CSBV chia làm bốn mũi vược qua vĩ tuyến 17 đánh thẳng vào Tr./Ð 57; ở hướng tây từ biên giời Lào, SÐ 304 và một trung đoàn thiết giáp đánh vào các tiền đồn của lữ đoàn 147 TQLC ở Núi Ba Hô và Sarge. Ngày hôm đó, mặt trận bắc và tây bắc Quảng Trị hoàn toàn trong biển lửa: CSBV bắn 2.000 quả đạn chung quanh căn cứ Fuller, Khe Gió, Carroll trong tổng số 11.000 trái trong 24 tiếng đầu của chiến dịch. <br /><br /><br />Với cuộc hoán chuyển vị trí đang diễn ra khi cộng sản tấn công, ba tiểu đoàn của Tr./Ð 56 chỉ có một phần bên trong những căn cứ đã được chỉ định. Hai tiểu đoàn 1/56 và 2/56 vẫn còn kẹt giữa đường và đang bị pháo của địch quân kèm lại một chổ; tiểu đoàn 3/56 ở Khe Gió và 1/2 (tiểu đoàn 1 của trung đoàn 2, chưa rời trại khi cộng quân tấn công) ở Fuller cũng không di chuyển được vì bị pháo. Bộ binh CSBV tấn công hai căn cứ suốt ngày 30. Trưa 31, Khe Gió và Fuller thất thủ. Lực lượng ở hai căn cứ này mở đường máu rút về hướng đông nam, về căn cứ Carroll. Với hệ thống truyền tin bị phá hủy, Ðính gần như hoàn toàn bất lực trong việc điều động các cánh quân đang phân tán. Không phải chỉ có trung đoàn 56 của Ðính là nằm trong hoàn cảnh ngặc nghèo: bên trái của căn cứ Carroll, ở hướng tây và tây nam, hai căn cứ hỏa lực Núi Ba Hô và Sarge — vòng đai bảo vệ của Carroll — sắp bị tràn ngập. Mười giờ rưởi đêm 31, tiểu đoàn 4 TQLC ở căn cứ hỏa lực Núi Ba Hô di tản. Khi Núi Ba Hồ di tản thì căn cứ Sarge ở phía nam cũng không thể giữ được. Bốn giờ sáng đêm đó, sau khi khẳng định được tình hình ở hướng bắc, bộ chỉ huy TÐ 4 TQLC ở Sarge cũng rút đi. Hai toán quân TQLC đều di tản về căn cứ Mai Lộc, ba cây số hướng nam căn cứ Carroll, nơi có bản doanh của lữ đoàn 147 TQLC. Bây giờ chỉ còn Carroll và Mai Lộc nằm trên hướng tiến quân của SÐ 304 về Quảng Trị. <br />Ngày 31 tháng 3-1972 Tr./T Ðính liên lạc với Chuẩn tướng Vũ Văn Giai để xin tiếp viện. “Nếu không được tiếp viện, căn cứ chỉ có thể giữ được vài ngày nữa thôi.” Ðính báo cáo với Tướng Giai. “Ráng chờ, sẽ có tiếp viện,” Tướng Giai trả lời. Hôm sau, 1 tháng 4, Tướng Lãm đích thân gọi Ðính. Lạc quan vì nghĩ rằng mình sẽ có tin vui, nhưng Tướng Lãm chi ra lệnh vắn tắt, là Sư Ðoàn 3BB và Quân Ðoàn I không còn gì để tiếp viện. Trung đoàn 56 phải giữ căn cứ Carroll bằng mọi giá! Chỉ có vậy, chỉ có vậy từ người tư lệnh quân đoàn. Cùng ngày, những cánh quân di tản hay những cánh quân bị kẹt vì pháo kích lần lượt về được bên trong căn cứ Carroll, trong đó có cánh quân dưới quyền chỉ huy của Trung đoàn phó Vĩnh Phong. Tường trình của Trung tá Phong làm cho Ðính bi quan thêm: Sư Ðoàn 308 CSBV đang truy kích họ. Sự bi quan trở thành thất vọng khi tin tức qua hệ thống truyền tin cho biết hai trung đoàn 2 và 57 trên đường di tản về Ðông Hà; và bộ chỉ huy Sư Ðoàn 3 BB sẽ rời căn cứ Ái Tử về Quảng Trị để tránh tầm đại bác 130 ly của cộng quân từ bên kia sông Bến Hải bắn qua. Tối ngày 1 tháng 4, với tất cả quân di tản tụ về, căn cứ Carroll bay giờ có khoảng 1,500 tay súng trong vòng đai phòng thủ (có tường trình nói quân số bên trong căn cứ trước giờ đầu hàng là 1,800 quân). <br />Ðọc đến đoạn này trong Vietnam’s Forgotten Army, không ít đọc giả sẽ có chút thông cảm cho hoàn cảnh Trung tá Ðính, như tác giả Wiest ít nhiều đã có — theo sự nhận xét của người điểm sách. Chúng ta có thể thấy được sự lo sợ và hoang mang của Tr/T Ðính: Ðường tiếp viện toàn bị cắt đứt; đối diện với một lực lượng của địch lớn hơn ba đến bốn lần về nhân lực cũng như hỏa lực; và bộ chỉ huy hình như đã bỏ trung đoàn, hay sẽ dùng trung đoàn như một lực lượng tế thần để đình trệ đường tiến quân của đối phương. Trong ý nghĩ của Ðính, quân lệnh cuối cùng của Trung tướng Lãm có hàm ý như vậy. <br />Nhưng nhìn lại địa hình và tình hình của mặt trận ở hướng tây và tây bắc Quảng Trị, quân lệnh của Tướng Giai và Tướng Lãm không phải không có ý nghĩa. Những căn cứ nhỏ như Núi Ba Hô, Sarge, C2, C3, hay Mai Lộc có thể di tản được vì đó là những căn cứ nhỏ, không có địa hình thuận lợi để phòng thủ. Nhưng căn cứ Carroll thì hoàn toàn khác. Ðây là một căn cứ có thể cầm cự một hay là hai trung đoàn địch dể dàng. <br /><br /><br />Tên chánh thức của căn cứ là Camp James J. Carroll. Tên căn cứ đến từ tên một đại úy TQLC Hoa Kỳ tử trận trong cuộc hành quân Prarie ở khu vực đó vào năm 1966. Trong cao điểm của cuộc chiến Việt Nam, căn cứ Carroll là căn cứ pháo binh quan trọng của TQLC Hoa Kỳ ở bắc đường 9. Từ căn cứ Carroll, đại bác 175 ly của Lục Quân và đại bác nòng 8 inches của TQLC bắn yểm trợ cho căn cứ Khe Sanh (cách đó 20 cây số về hướng tây nam) và thường xuyên đấu súng với những pháo đội 130 ly của CSBV ở bên kia sông bến Hải (20-22 cây số hướng bắc). Trước khi trao lại cho quân lực VNCH, căn cứ là nơi đóng quân của bốn tiểu đoàn pháo binh Hoa Kỳ (hai tiểu đoàn của trung đoàn 12 pháo binh TQLC; hai tiểu đoàn của liên đoàn 94 pháo binh Lục Quân). Căn cứ rộng đủ để chứa hơn 2,000 quân và một vòng đai phòng thủ qui mô. Ðịa hình của căn cứ rất lý tưởng để phòng thủ: Xây theo hình ngũ giác trên một ngọn đồi trống, quân phòng thủ bên trong Carroll có thể quan sát bốn hướng: địch quân không thể tấn công bằng bộ binh mà không bị phác giác từ xa 500-1,000 mét. Ðịch quân có thể pháo kích — như họ đang làm — nhưng tấn công bằng quân bộ bịnh thì lại là một chuyện khó khăn nếu quân trú phòng quyết định tử thủ. Ngày 1 tháng 4, như đã nói ở trên, căn cứ Carroll có 1,500-1,800 tay súng bên trong và một lực lượng pháo binh gồm 26 khẩu đại bác từ 105 cho đến 175 ly, với vài chiến xa hạng nhẹ có trang bị đại bác 40 ly (loại thiết giáp tương tự như M.41, gọi là “Duster,” trang bị hai khẩu 40mm và một đại liên 30 trên pháo tháp). Nhìn từ quan điểm phòng ngự, lực lượng này có thể gây thiệt hại đáng kể cho mọi cuộc tấn công — hay ít nhất có thể cầm chân một lực không nhỏ của CSBV. <br /><br /><br />Sáng Chủ Nhật ngày 2 tháng 4, vùng I được một phi tuần B-52 yểm trợ. Bom bỏ hướng tây bắc vòng đai bên ngoài của căn cứ. Liền sau cuộc dội bom, CSBV tấn công căn cứ từ ba hướng. Nhưng với địa hình kiên cố của căn cứ, CSBV bỏ cuộc sau vài tiếng tấn công biển người. Tác giả Wiest viết, cuộc tấn công biển người bị đẩy ngoài công sự một cách dể dàng bằng mìn và súng cá nhân. Cuộc tấn công bị coi thường đến độ vị trung tá cố vấn Mỹ đang có mặt bên trong căn cứ, trả lời với tiền sát viên không quân là ông chưa cần yểm trợ không lực trong lúc đó vì không có mục tiêu nào thích đáng (đọc, Trial By Fire: the 1972 Easter Offensive, Americas Last Vietnam Battle, của Dale Andradé). Sau cuộc tấn công vào buổi sáng, Ðính gọi về bộ tư lệnh sư đoàn xin yểm trợ. ) Trung tá Cương trả lời là ông không thể trả lời cho Ðính được; và Chuẩn tướng Giai thì đang ở Ðông Hà thị sát tình hình. (Người viết bài muốn chú một chi tiết về cuộc đối thoại giữa hai Trung tá Cương và Ðính: Một độc giả đã liên lạc với Trung tá Cương (sau khi đọc bài viết này lần đầu tiên). Trung tá Nguyễn Hữu Cương, nói ông không có nhận điện thoại, và cũng không có mặt ở bộ tư lệnh sư đoàn lúc đó. Ðó là lời xác nhận của Trung tá Cương. Trong sách, tác giả Wiest trích theo sách cuả Dale Andradé. Người viết ghi chú ở đây để cảm ơn sự bổ túc của độc giả). Chuẩn tướng Giai thì đang ở Ðông Hà thị sát tình hình. Cũng như lần nói chuyện trước, không ai có một câu trả lời rõ ràng về số phận của Trung Ðoàn 56. Hai giờ trưa, cộng quân tấn công lần thứ nhì: lần này địch tiến gần được hàng rào phòng thủ hơn lần trước, nhưng vẫn không làm được gì. Trong khi cuộc tấn công đang diễn ra, Ðính nghe trên hệ thống truyền tin một sĩ quan CSBV muốn nói chuyện với ông. Người trên hệ thống truyền tin nói ông ta đang quan sát mặt trận. Ông nói số phận của Ðính và quân lính dưới quyền đang nằm trong tình trạng nguy hiểm. Nếu Ðính và quân của trung đoàn đầu hàng thì họ sẽ được đón tiếp và bảo vệ an toàn. Nếu không tất cả sẽ bị tiêu diệt. Chưa đầy một tiếng sau, một tư lệnh mặt trận lên máy truyền tin nói chuyện với Ðính một lần nữa. Người tự nhận là tư lệnh mặt trận cho biết đây là lần đề nghị cuối cùng trước khi họ tấn công. Ðính yêu cầu CSBV ngưng bắn và cho thêm giờ để quyết định. Ba giờ trưa, Ðính tập hợp 13 sĩ quan chỉ huy của trung đoàn trong hầm chỉ huy để quyết định. Ðính mở lời trước, cho biết tình thế rất tuyệt vọng. Căn cứ không thể cầm cự trước sự tấn công liên tục của địch quân. Sau đó Ðính nói ra ý nghĩ thật của mình, là “Nếu tiếp tục chiến đấu, nhiều người sẽ chết. Và nếu chúng ta có bị thương, có chết, để có được một chiến thắng, thì cũng không ai lo cho chúng ta sau đó. Chúng ta bây giờ phải tự lo lấy thân.” Tiếp theo Ðính nói về đề nghị của địch. Sau đó ông hỏi tất cả muốn tử thủ, đánh mở đường máu, hay đầu hàng? Nếu tất cả các sĩ quan có mặt đồng ý tiếp tục đánh thì ông sẽ nghe chiều theo ý họ. Trong số sĩ quan hiện diện, chĩ có Thiếu tá Tôn Thất Mãn (khóa 12 Thủ Ðức, TÐT 1/56) lên tiến đòi đánh đến cùng. Số sĩ quan còn lại yên lặng không ý kiến. Trước sự yên lặng của các sĩ quan, Ðính nói về gia đình của họ … về viễn ảnh những vui mừng khi họ được sống sót trở về. Sau đó — theo tác giả Wiest viết — họ bỏ phiếu để quyết định: tất cả đều đồng ý đầu hàng, chỉ có Thiếu tá Tôn Thất Mãn không bỏ phiếu. Với quyết định đã được đồng thuận, Ðính đi qua lô cốt của hai sĩ quan cố vấn Mỹ để thông báo. Nhưng Thiếu tá Joseph Brown và Trung tá William Camper không đồng ý. Camper đề nghị trung đoàn dùng những chiếc thiết giáp có trong căn cứ đánh bung ra vòng đai mở đường máu. Ðính không chịu, nói vô ích. “Tôi muốn giết ông Trung tá [Ðính] ngay tại chổ”, Trung tá Camper kể lại sự tức giận của ông khi Ðính nằng nặc đòi đầu hàng. Sau khi nói với Trung tá Ðính là nếu ông ta đầu hàng thì trách nhiệm của hai người cố vấn đã hết. Camper gọi về trung tâm hành quân của Sư Ðoàn 3BB cho biết “nhiệm vụ của ông ta không còn cần ở căn cứ Carroll nữa, và xin được di tản.” May mắn, một trực thăng C-47 trên đường tiếp tế đạn cho căn cứ Mai Lộc bay ngang qua đó, ghé lại bốc hai sĩ quan Hoa Kỳ và 30 người lính không chịu đầu hàng và muốn đi theo hai sĩ quan Mỹ. Khi chiếc trực thăng cất cánh thì cờ đầu hàng đã bay trên căn cứ Carroll. Trung tá Ðính dẫn toán quân 600 người ra khỏi trại đi đến điểm hẹn với địch. Bên trong, số quân không chịu đầu hàng còn lại rút đi về hướng đông. Trong nhóm quân không chịu theo Tr./T Ðính là Pháo Ðội B của TÐ 1 Pháo Binh TQLC. Ðây là pháo binh đi kèm TÐ 4 TQLC, họ đóng nhờ trong căn cứ Carroll. Theo tường trình của cố vấn Mỹ sau này, Pháo Ðội B hạ nòng đại bác xuống bắn thẳng cho đến khi bị tràn ngập. Tất cả toán quân rút đi, về đến phòng tuyến VNCH được khoảng 1,000 người, trong đó có một tiểu đoàn còn nguyên vẹn. Tối đêm đó Ðính và 600 quân đến một địa điểm gần căn cứ Khe Gió. Ở đây một sĩ quan CSBV ra đón họ. Ngày hôm sau, 3 tháng 4, Ðính lên lên đài phát thanh CSBV đọc lời kêu gọi quân nhân VNCH đầu hàng như ông đã làm. <br /><br /><br />Thiếu tá Huế bị đưa về bắc được hơn một năm thì Trung tá Ðính cũng được CSBV đem ra bắc để tiếp tục thực hiện kế hoạch tuyên truyền của họ. CSBV đề nghị Ðính gia nhập quân đội CSBV thì sẽ được phục hồi chức vụ Trung tá trong quân đội của họ. Ðính đồng ý. Ðính làm như vậy chỉ để — theo lời Ðính kể — giúp đỡ 600 quân nhân đầu hàng bị đưa về miền bắc. Những quân nhân này đang phục vụ công tác lao động ở các đơn vị hậu cần CSBV. Trở thành một sĩ quan cộng sản, Ðính có lương và nhà ở, và làm việc như một sĩ quan văn phòng ở Hà Nội. Sau này, sau khi VNCH thất thủ, Ðính đã phục vụ trong công tác tuyên truyền cho CSBV. Một trong những công tác là làm giảng viên ở những trại tập trung quân đội VNCH. <br /><br /><br />Về phần Huế, sau sáu tháng bị nhốt ở Hỏa Lò, ông bị đưa về trại tù Sơn Tây. Trong thời gian ở Sơn Tây, CSBV đưa Ðính và Trung tá Vĩnh Phong vào nói chuyện với một số tù binh. Trong buổi gặp mặt đó, bên phía tù binh VNCH ngoài Huế còn có Đại tá Nguyễn Văn Thọ và Thiếu tá Trần Văn Ðức của lữ đoàn 3 Nhảy Dù. Trong lần nói chuyện đĩ phía bên kia không thẳng lời chiêu dụ Huế và hai sĩ quan Nhảy Dù. Nhưng họ có hàm ý là nếu ba người sĩ quan đầu hàng thì sẽ có được một đời sống thoãi mái hơn là đời sống của tù binh. Sau đó, Huế và một số sĩ quan được đưa về Hà Nội để chiêu dụ thêm một lần nữa. Nhưng một lần nữa Huế từ chối không theo về bên kia. Hai năm sau, cuộc đời của Thiếu tá Huế bị thêm một “tai nạn” nữa. Sau khi Hiệp Ðịnh Paris 1973 được ký kết: Là một tù binh, tên của ông được nằm trong bản trao trả tù binh chính thức. Nhưng chỉ vài giờ trước khi được giao trả về miền nam, CSBV giữ ông lại. Vì ông bị bắt ở Hạ Lào, nên nói “một cách kỹ thuật,” ông là tù binh của Pathet Lào! Huế bị giam đến năm 1983 mới được trả tự do. Theo lời kể của Huế, trước khi gia đình ông được phép rời Việt Nam sang Mỹ, Tr./T Ðính có tìm vào Sài Gòn gặp Huế. Ðính muốn khi Huế đến Mỹ và khi gặp lại những sĩ quan cố vấn, nên giải thích hoàn cảnh đã làm cho ông phải đầu hàng —Những hoàn cảnh mà Th/T Huế cho là không chính đáng để đầu hàng. <br /><br /><br />Tài liệu căn bản của Vietnam’s Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN đến từ phỏng vấn những nhân vật có liên quan đến sự kiện. Sử liệu trong tác phẩm không quan trọng hay mới lạ trên quan điểm sử học. Nhưng đó là sự lôi kéo của tác phẩm: tác giả tạo được một tác phẩm lý thú dựa trên những gì rất ít ông đã tìm được. Andrew Wiest là giáo sư sử học tại đại học Southern Mississippi. Ông đã có một thời gian giảng dạy tại trường Cao Ðẳng Không Quân (Air War College), nơi đào tạo sĩ quan cấp tướng tương lai cho Không Quân Hoa Kỳ. Vietnam’s Forgotten Army là tác phẩm thứ ba về chiến tranh Việt Nam của tác giả. <br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhChi9_kroguUzZgHK-4Cr5n0wYLGI12VekcRx7TMS097fUmjxRVXFIa_3KdDoSZXEZffzba56E2uL5MEpI7Cc0eGxTjYV4OgKic8wU2EFjCpMXODtldFgz6AGrLvn_VABKwI3RVmF6TmE/s1600-h/carolbase.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhChi9_kroguUzZgHK-4Cr5n0wYLGI12VekcRx7TMS097fUmjxRVXFIa_3KdDoSZXEZffzba56E2uL5MEpI7Cc0eGxTjYV4OgKic8wU2EFjCpMXODtldFgz6AGrLvn_VABKwI3RVmF6TmE/s400/carolbase.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5212970885057947042" /></a><br />Không ảnh của căn cứ Carroll <br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEglh8KJ5fc2ZulzxLVDKULnMqUlWEdAjJhuWZASuEMMlBvp4YF-A1R7EtbgoA6onBHz2gTmtzdjB7dnlB2L_b8C9UDZY3Q_XibV-NXFAQanaFV_DS6AxJBVhYdH4nTFSiauCWIO-BESzEo/s1600-h/loloLZ.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEglh8KJ5fc2ZulzxLVDKULnMqUlWEdAjJhuWZASuEMMlBvp4YF-A1R7EtbgoA6onBHz2gTmtzdjB7dnlB2L_b8C9UDZY3Q_XibV-NXFAQanaFV_DS6AxJBVhYdH4nTFSiauCWIO-BESzEo/s400/loloLZ.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5212971469631472178" /></a><br />Bãi đáp LoLo, 5-3-1971. Một ngày trước khi 2/2 của Th/T Trần Ngọc Huế nhảy vào Tchepone. <br /> <br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi6cmAcNdSE2mx8Vye_O2aB0zWaY-FpFbSz1xrCgx1qu3jGYn7e0zggayD1bSRi_zqvtX7EI7yDueVqsPjRCp2K0QhgKDKl0K42WZcjg0PJcYuoRTSgXWyxPmkVaKiSVU13sNA8wkuyVfo/s1600-h/175mm.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi6cmAcNdSE2mx8Vye_O2aB0zWaY-FpFbSz1xrCgx1qu3jGYn7e0zggayD1bSRi_zqvtX7EI7yDueVqsPjRCp2K0QhgKDKl0K42WZcjg0PJcYuoRTSgXWyxPmkVaKiSVU13sNA8wkuyVfo/s400/175mm.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5212971913725287954" /></a><br />Hình trên: Ðại bác 175 ly ở căn cứ Carroll khi còn là căn cứ của bốn tiểu đoàn pháo binh, TQLC và Lục Quân Hoa Kỳ. <br /><br /> <a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi1CtVCefaB4ENug7qVObZ3gCmH5NRwG96YqYYp4goVT7518cQZjdysdQRb1NhvirXE9kSzqkFB6EfgouGfaj9o_kNlvTc1-ccuwlJt-S26iJbjy5klUeSLqWRoLNq55mSIiFSIYEDCV_o/s1600-h/DaiUyHuevaThieuTaDinh.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi1CtVCefaB4ENug7qVObZ3gCmH5NRwG96YqYYp4goVT7518cQZjdysdQRb1NhvirXE9kSzqkFB6EfgouGfaj9o_kNlvTc1-ccuwlJt-S26iJbjy5klUeSLqWRoLNq55mSIiFSIYEDCV_o/s400/DaiUyHuevaThieuTaDinh.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5214081143602002226" /></a><br /> <br />Bìa tác phẩm Vietnam’s Forgotten Army. Đại úy Trần Ngọc Huế đang được Đại tướng Abrams gắn huy chuơng. Bên phải là Thiếu tá Phạm Văn Ðính. Người sĩ quan Hoa Kỳ đứng phía sau là Đại úy cố vấn cho đại đội Hắc Báo William Joe Bolt. Bolt hồi hưu với cấp bậc Trung tướng.</strong>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-38207769578721568702008-06-17T11:52:00.000-07:002008-06-17T11:53:32.930-07:00Hanh Quan Lam Son 719 / Nguyen Ky Phong<strong>Nguyễn Kỳ Phong<br />Hành quân Lam Sơn 719: Nguồn gốc và khuyết điểm<br /> <br />Chiến tranh Việt Nam có nhiều trận đánh khốc liệt; khốc liệt trong ý nghĩa về cường độ của hoả lực, cấp số quân tham dự, và số thương vong đôi bên. Những trận đánh thường được nhắc đến trong quân sử như trận tử thủ An Lộc, tháng 6-1972; trận tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị, tháng 9-1972; hai cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt, Toàn Thắng 42 và Toàn Thắng 1/71, tháng 5-1970 và thaùng 1-1971; trận Ðồi 1062 ở Thường Ðức, Quảng Nam... Nhưng nổi bật hơn hết là cuộc hành quân tấn công vào những căn cứ hậu cần của cộng sản Việt Nam (CSVN) ở Hạ Lào vào tháng 2 năm 1971. So với các trận đánh vừa được kể tên, hành quân Lam Sơn 719 (HQLS719) lớn và khốc liệt hơn về mọi mặt. <br /><br />Ngoài sự thương vong cao của đôi bên, HQLS719 còn được nói đến như một cuộc hành quân có nhiều khuyết điểm — khuyết điểm từ lúc soạn thảo cho đến khi thực hiện. HQLS719 còn được nhắc lại trong sự nghi ngờ đó là kế hoạch hành quân đã bị bại lộ từ lúc soạn thảo, nhưng cuộc hành quân vẫn được tiếp tục để đưa đạo quân Việt Nam Cộng hoà (VNCH) đi vào tử lộ. Bài viết này sơ lược lại nguồn gốc và khiếm khuyết của cuộc hành quân, dựa vào một số tài liệu được giải mật trong thời gian gần đây. <br /><br /><br />Tình hình tổng quát của VNCH vào cuối năm 1970 <br /><br />Trước khi nói về quyết định đưa đến HQLS719, chúng ta nhìn sơ qua tình hình chính trị và quân sự của VNCH trong năm 1970, và tình hình tổng quát của lực lượng CSVN ở Hạ Lào. <br /><br />Năm 1970 là năm thành công nhất của VNCH từ sau khi chiến tranh bùng nổ mạnh vào cuối năm 1964. Chương trình Việt Nam hoá — Hoa Kỳ trao cuộc chiến lại cho Quân lực VNCH (QLVNCH) — đã tiến hành được hơn một năm, và sự thành công của QLVNCH trên mọi chiến trường được chứng tỏ khi CSVN cho lưu hành Quyết nghị 9 vào tháng 6-1969. [1] Quyết nghị 9 chỉ thị các bộ tư lệnh CSVN ở chiến trường B (chiến trường trong lãnh thổ VNCH, để phân biệt với chiến trường ở Lào và Cam Bốt), tránh đụng trận nếu có thể được; trở về chiến thuật du kích chiến để bảo vệ quân số; và chỉ nên đương đầu với VNCH trên mặt trận chính trị hơn là ngoài chiến trường. Song song với thành công về quân sự, những chương trình bình định nông thôn đã phá hủy hạ tầng cơ sở của CSVN, đem lại sự an ninh cho xã ấp ở miền Nam. Sự trù phú và số lúa gạo sản xuất trong năm 1969 và 1970 cho thấy sự thành công của chính phủ VNCH về mặt an ninh nội an và trong kế hoạch bình định, xây dựng nông thôn. [2] <br /><br />Trung tuần tháng 3-1970, với sự hợp tác của tân chính phủ Lon Nol, QLVNCH và Hoa Kỳ tấn công và các căn cứ hậu cần CSVN ở bên trong lãnh thổ Cam Bốt. Cuộc hành quân Toàn Thắng 42 do các đơn vị ở quân đoàn III và IV, hai sư đoàn Thuỷ quân Lục chiến và Nhảy dù VNCH, và một số đơn vị Thiết kỵ và Không kỵ Hoa Kỳ thực hiện. Hành quân Toàn Thắng 42 đem lại kết quả ngoài sức tưởng tượng của Bộ Tổng Tham mưu VNCH và Bộ Tư lệnh MACV: số vũ khí và quân nhu dụng tịch thu được từ căn cứ hậu cần cộng sản đủ để trang bị cho 54 tiểu đoàn chánh qui; gạo tịch thu được đủ nuôi 50 ngàn quân của B-2 từ bốn đến sáu tháng (7.000 tấn gạo). Thiệt hại nhân sự của QLVNCH là 638 chết; 3009 bị thương. Phía Hoa Kỳ, 338 chết; 1525 bị thương. Thiệt hại CSVN là hơn 11.300 tử thương; 2.300 tù binh. [3] Thiệt hại của phía đồng minh tương đối nhỏ so với kết quả thu được. <br /><br />Chiến thắng dể dàng [4] ở Cam Bốt đưa đến sự hăm hở cho Bộ Tổng Tham mưu VNCH, Bộ Tư lệnh MACV và Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương (trên nguyên tắc đây là bộ tư lệnh nằm trên đầu MACV). Sau khi hành quân Toàn Thắng 42 kết thúc vào tháng 8-1970, [5] dự kiến của đồng minh là, nếu số dự trữ của CSVN ở Cam Bốt nhiều như vậy thì các căn cứ tiếp liệu hậu cần nằm trên đường xâm nhập Hồ Chí Minh ở Hạ Lào phải chứa nhiều hơn. Ðầu tháng 11-1970 đô đốc John McCain của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương yêu cầu đại tướng Creighton Abrams của Bộ Tư lệnh MACV điều nghiên một kế hoạch hành quân qua Hạ Lào để cắt đứt đường xâm nhập Hồ Chí Minh. Không giống như cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt, đô đốc McCain thông báo, kế hoạch đánh qua Lào có một giới hạn: Hoa Kỳ chỉ yểm trợ về không vận và không lực. QLVNCH là lực lượng đánh vào mục tiêu; cố vấn Mỹ của các đơn vị VNCH không được tháp tùng với đơn vị qua bên kia biên giới với bất cứ lý do gì. [6] Ðầu tháng 12-1970, Bộ Tư lệnh MACV loan báo và thăm dò ý kiến Bộ Tổng Tham mưu VNCH về một kế hoạch đánh qua Hạ Lào. <br /><br /><br />Lào và đường xâm nhập Hồ Chí Minh <br /><br />Vương Quốc Lào. Ðầu năm 1971, khi VNCH chuẩn bị tấn công vào những căn cứ hậu cần trên lãnh thổ Lào, thì Hoa Kỳ đã tham dự và điều khiển một chiến tranh “bí mật” ở vương quốc đó hơn bảy năm. Ở Thượng Lào, nhân viên CIA Mỹ điều khiển một đạo quân hơn 20 ngàn người của tướng Vang Pao, giao chiến thường xuyên với hai sư đoàn quân CSVN và Pathet Lào. Ở Hạ Lào, Lực lượng Ðặc biệt VNCH và Hoa Kỳ, từ năm 1964, đã xâm nhập vào nhiều địa điểm từ Ðèo Mụ Già xuống đến bình nguyên Bolovens để đánh dấu toạ độ cho những chiến dịch dội bom chiến lược bằng B-52. Gọi là “chiến tranh bí mật” vì Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ không thông báo cho Quốc hội biết về những ngân khoản quân sự chi tiêu ở Lào; và CSVN — dù bị dội bom thường xuyên — cũng không lên tiếng, vì họ luôn luôn tuyên bố họ không có quân hay căn cứ trên đất Lào. Chính phủ Hoàng gia Lào cũng không có chọn lựa nào khác hơn là yên lặng: họ hy vọng vào Hoa Kỳ để đẩy lui sự xâm lấn của CSVN. Trong sự phủ nhận của tất cả can sự, cuộc chiến tiếp tục xảy ra trong vòng “bí mật.” [7] <br /><br />Ðường xâm nhập Hồ Chí Minh. Lực lượng CSVN/ Việt cộng ở miền Nam không thể tiếp tục chiến đấu hơn một năm nếu không nhận được tiếp liệu từ bên ngoài. Ðiều này đúng hơn khi các đơn vị cộng sản mở những cuộc tấn công với cấp số tiểu đoàn, trung đoàn trở lên. [8] Ðể nuôi sống ý định xâm chiếm miền Nam bằng võ lực, tháng 5-1959 CSVN thiết lập Ðoàn 559 để chuyển người và vũ khí vào nam. Nhiệm vụ của Ðoàn 559 là xây dựng và duy trì một hệ thống đường xâm nhập trên đất Lào, chạy dài từ đèo Mụ Già (rồi sau đó từ những con đèo băng qua biên giới ở Quảng Bình và Vĩnh Linh) xuống đến những tỉnh ở miền đông bắc Cam Bốt (khoảng Katum, Bù Gia Mập, phía VNCH). Từ năm 1959 đến năm 1965, phương tiện vận tải trên đường xâm nhập Hồ Chi Minh (ĐHCM) là sức người, xe đạp thồ, voi, hay trâu bò. Nhưng vào mùa khô năm 1965 (mùa khô ở Hạ Lào bắt đầu vào tháng 10 và kéo dài đến cuối tháng 4), CSVN quyết định cơ giới hoá phương tiện vận chuyển — dùng xe để chuyên chở. Dùng xe thì phải làm đường, và hệ thống đường vận tải của CSVN bung ra mọi nơi trên đất Lào. Năm 1971, khi QLVNCH soạn thảo kế hoạch đánh vào những căn cứ hậu cần trên con đường chiến lược đó, ĐHCM không còn là một “con đường” nữa, mà là một hệ thống đường ngang, đường dọc, chằng chịt trên đất Lào. Tài liệu của CSVN nói hệ thống ĐHCM có tất cả là 17.000 cây số. Ðó là con số phóng đại. Nhưng sự ước lượng đến từ VNCH và Hoa Kỳ thì tổng cộng hệ thống ĐHCM có không dưới 10.000 cây số. Một chi tiết mà hai phía đều công nhận: hệ thống ĐHCM gồm có sáu đường dọc (chạy từ bắc xuống nam); 21 đường ngang (từ tây sang đông, dẫn từ lãnh thổ Lào vào biên giới VNCH); và một số đường vòng không kể hết (đường vòng là đường dùng để trốn bom, hay chạy vòng ngang một trục lộ chánh đang bị bom phá hủy). Năm 1970 cũng là năm CSVN hoàn tất hệ thống ống dẫn dầu từ Quảng Bình qua đèo Mụ Già, vòng qua phía tây Tchepone và xuôi nam, đi vào thung lũng A Shau. Hệ thống ống dầu không lớn (ống có đường kính 20 phân), nhưng đủ để cung cấp nhiên liệu cho hơn 60 tiểu đoàn xe vận tải và hai trung đoàn xe tăng đóng ở Trung và Hạ Lào. [9] <br /><br />Với cây số của hệ thống đường gia tăng, nhân lực và quân lực cần có để bảo vệ ĐHCM phải gia tăng. Ðoàn 559 lúc thành hình có cấp số tiểu đoàn với không hơn 400 người, năm 1970 được nâng lên cấp số binh đoàn với 63.000 quân, và 12.000 dân công tạp dịch. Từ một trạm giao liên dẫn đường duy nhất ở Khe Gió, bây giờ ĐHCM có 67 trạm giao liên đường bộ và đường thủy, và 30 binh trạm. Mỗi binh trạm có cấp số tương đương một trung đoàn. Năm 1969 ĐHCM chuyển vận được 78.000 tấn; và năm 1970, 74.000 tấn quân nhu dụng. Hệ thống phòng không bảo vệ những trục đường quan trọng gia tăng theo tỉ lệ số lượng hàng chuyển vận. Năm 1965 lực lượng phòng không trên ĐHCM có khoảng 190 súng phòng không; năm 1970 hoả lực phòng không bảo vệ đường có hơn 970 súng phòng không. Khẩu độ súng phòng không gồm đủ loại: từ loại 12.7 ly để chống trực thăng, đến 85 ly có tầm sát hại trên cao độ của vận tải cơ võ trang AC-130. Ðôi khi đại bác phòng không 100 ly được sử dụng để hăm doạ những phi tuần B-52. Nhiều hơn hết là loại 23 ly và 37 ly điều khiển bằng ra-đa, một vũ khí đáng sợ cho tất cả những phi cơ hoạt động dưới 10.000 bộ (bốn cây số). [10] <br /><br />Hoa Kỳ và VNCH không phải không biết về sự bành trướng của ĐHCM. Từ năm 1964 VNCH và Hoa Kỳ đã đưa ra nhiều kế hoạch để ngăn chặn hay giới hạn lưu lượng xâm nhập trên ĐHCM. Nhưng Hạ Lào, với địa hình hiểm trở, rừng già che phủ mặt đất, và núi đồi “trùng trùng điệp điệp,” mọi kế hoạch đánh phá, ngăn chặn đã không đem lại kết quả như mong muốn. Trước khi những toán Lực lượng Ðặc biệt MACV-SOG hỗn hơïp Việt-Mỹ xâm nhập vào Hạ Lào để viễn thám, Lực lượng Đặc biệt VNCH đã đưa năm toán vào Hạ Lào trong hai tháng 4 và tháng 6 năm 1964 để thám thính. Tuy nhiên trong số 30 nhân viên của năm toán, chỉ có năm người trở về được, hai mươi lăm người kia chết hoặc mất tích. [11] Những Lực lượng Đặc biệt trở về báo cáo cho biết cán binh cộng sản dầy đặc ở Hạ Lào. Về phía Hoa Kỳ, ngoài những toán Lực lượng Đặc biệt được đưa vào thám thính những mục tiêu trên ĐHCM thường xuyên, từ năm 1968 Bộ Tư lệnh MACV đã thực hiện những chiến dịch dội bom chiến lược hàng ngày trên những của khẩu xâm nhập vào Hạ Lào. Chiến dịch dội bom Commando Hunt chỉ giới hạn vào bốn trọng điểm xâm nhập vào Hạ Lào: Ðèo Mụ Già, Bản Karai, Bản Ravin, và một cửa khẩu trên đầu của giao điểm Sông Rào Quảng và biên giới Lào (hướng tây bắc Khe Sanh). [12] Một ngày ba lần, mỗi trọng điểm bị ba phi tuần của chín pháo đài bay B-52 đội bom. Một B-52 thông thường chở 105 quả bom 500 cân. Khoảng giữa của những phi vụ B-52 là 125-150 phi vụ chiến thuật rải bom CBU nổ chậm, để ngăn chặn dân công sửa những đoạn đường vừa bị phá. Không quân Hoa Kỳ thực hiện những chiến dịch dội bom như vậy từ tháng 11-1968 cho đến tuần lễ cuối cùng của tháng 1-1971, trước khi QLVNCH chuẩn bị băng qua biên giới. [13] <br /><br /><br />Sự khai sinh của hành quân Lam Sơn 719 <br /><br />Henry A. Kissinger trong hồi ký White House Years, nói về nguồn gốc đưa đến kế hoạch HQLS719 như sau, “Sự thành công thì có nhiều người cha. Nhưng thất bại là đứa con không người nhận.” [14] Ý ông Cố vấn An ninh Quốc gia muốn nói là, không ai trong chính phủ Nixon nhận là cha đẻ của kế hoạch HQLS719. Thật sự chúng ta không có nhiều tài liệu khẳn định ai tác giả “vẽ” ra kế hoạch. Nhưng nhiều tài liệu cho thấy Kissinger có tham dự và đốc thúc việc thực hiện HQLS719. Tài liệu rõ ràng nhất đến từ hồi ký của H. R. Haldeman, tham mưu trưởng Toà Bạch ốc, khi Kissinger nói với Haldeman là ông muốn nói chuyện với tổng trưởng quốc phòng Melvin Lair và đô đốc Thomas Moorer (Tham mưu Trưởng Ban Tham mưu Liên quân), trước mặt Tổng thống Richard Nixon, về kế hoạch HQLS719. Lý do là Kissinger muốn thấy Nixon trực tiếp ra lệnh cho hai người thi hành kế hoạch. Một tài liệu khác đến từ đại tướng Alexander Haig, phụ tá quân sự cho Kissinger lúc đương thời. Trong hồi ký Inner Circles, tướng Haig nói Ban Tham mưu Liên quân soạn kế hoạch HQLS719 qua sự thúc giục của Nixon và Kissinger. [15] Có thể là như vậy. Nhưng tài liệu cho thấy chính tướng Haig là người đích thân đem huấn lệnh của tổng Thống Nixon qua Sài Gòn ngày 13 tháng 12-1970, để thông báo cho MACV về kế hoạch đánh qua biên giới. [16] <br /><br />Ai là tác giả kế hoạch HQLS719 có thể không quan trọng. Quan trọng hơn là vì lý do nào kế hoạch này được đề nghị với thẩm quyền. Sách vở và tài liệu cho thấy lý do chính trị và quân sự thúc đẩy sự thành hình của HQLS719 — lý do chính trị và quân sự của năm 1970-71. <br /><br />Lý do chính trị. Kissinger — và cũng có thể Nixon — có một thúc đẩy chính trị khi đề nghị hay thúc đẩy kế hoạch HQLS719. Kissinger không nói ra điều này trong hồi ký. Dĩ nhiên ông sẽ không bao giờ nói ra những ẩn ý chính trị của một kế hoạch. Công chúng chỉ biết được điều này nhờ vào hồ sơ được giải mật sau này. Năm 2002 Trung tâm Lưu trữ Văn khố Quốc gia cho giải mật một văn thư của Kissinger liên hệ đến HQLS719. Trong văn thư, Kissinger giải thích sự cần thiết của HQLS719 đối với bối cảnh chính trị Mỹ cho hai năm 1971-72. Năm 1972 là năm bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ. Nixon cần được sự ủng hộ tuyệt để của cử tri. Ðể đền bù lại lời Nixon đã hứa với cử tri trong nhiệm kỳ thứ nhất, là ông sẽ kết thúc cuộc chiến ở Việt Nam trong trong vòng một năm sau khi nhiệm chức, lần ứng cử nhiệm kỳ hai, Nixon phải cho cử tri thấy cuộc chiến Việt Nam khả quan, nếu không nói là đồng minh đang thắng thế. Một cuộc tấn công qua Lào vào năm 1971 sẽ gây nhiều thiệt hại cho CSVN. Và nếu CSVN khôi phục lại sức lực để đe doạ tình hình an ninh cho VNCH, thì ít nhất họ cũng cần đến hơn một năm — nghĩa là sau khi cuộc bầu cử 1972 hoàn tất. [17] Kissinger hy vọng như vậy. Hơn nữa, từ tháng 8-1969 Hoa Kỳ đã lần lược rút quân theo kế hoạch — một tiến triển làm vừa lòng giới phản chiến — nếu cuộc tấn công qua Lào có kết quả như dự đoán, thì chương trình rút quân và chương trình Việt Nam hoá sẽ thành công theo ý muốn. Ðó là mưu lược chính trị của Kissinger trong tương quan của HQLS719 và mùa bầu cử 1972. <br /><br />Lý do quân sự. Lý do quân sự cho kế hoạch HQLS719 thì quá rõ; không ai phủ nhận được — ngay cả phía CSVN. Sự thành công mỹ mãn trong lần đánh qua Cam Bốt. Quân lực CSVN gần như kiệt quệ. Nghị quyết 9 và những đợt rút quân về Bắc vì không còn đủ lương thực để nuôi quân... Tất cả những yếu tố đó thúc đẩy các tư lệnh Việt - Mỹ đi đến quyết định: đây là thời điểm tốt nhất để tấn công các căn cứ hậu cần của CSVN ở Lào; cắt đứt đường tiếp tế vào nam của cộng sản. Một yếu tố khác làm cho giới lãnh đạo Việt - Mỹ phải quyết định nhanh hơn: Cuối năm 1970 quân lực Mỹ còn 334 ngàn quân ở Việt Nam, với đầy đủ tiếp liệu và hoả lực. Nếu đánh là phải đánh ngay, nếu chần chờ, hoả lực yểm trợ của Hoa Kỳ sẽ mất dần theo đà rút quân trong những năm kế tiếp. <br /><br />Với thực tế quân sự khả quan — để phục vụ cho một tương lai chính trị — Toà Bạch ốc ra lệnh cho Ban Tham mưu Liên Quân sơ thảo dự án cho HQLS719. Ðầu tháng 11-1970, Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương yêu cầu Bộ Tư lệnh MACV phát hoạ kế hoạch hành quân qua Hạ Lào. Mục tiêu chính là Tchepone; và tất cả các căn cứ hậu cần nằm từ hươùng đông nam Tchepone xuống tận A Shau. <br /><br /><br />Khái niệm “Hành quân” của HQLS719 <br /><br />HQLS719 có cấp số quân đoàn, với một lực lượng tương đương ba sư đoàn tham dự. Cuộc hành quân có bốn giai đoạn. Giai đoạn I, có tên Dewey Canyon II, do các lực lượng Hoa Kỳ phụ trách. [18] Mục tiêu của giai đoạn I là giải toả quốc lộ 9 từ Ðông Hà đến biên giới Việt-Lào ở Lao Bảo; tái chiến căn cứ Khe Sanh để thiết lập Bộ Chỉ huy Tiền phương của HQLS719; và, tái thiết phi trường Khe Sanh làm điểm chuyển vận chánh. Giai Ðoạn II. Các lực lượng VNCH, dùng quốc lộ 9 làm hướng tiến quân, đánh chiếm Bản Ðông, một vị trí quan trọng nằm trên đường 9, cách biên giới chừng 12 cây số. Giai đoạn III: Sau khi củng cố lực lượng, quân Nhảy dù sẽ được trực thăng vận từ Bản Ðông đổ bộ vào chiếm Tchepone, khoảng 42 cây số từ Lao Bảo. Trong lúc đó lực lượng thiết kỵ vẫn tiến đánh dọc theo đường 9 để bắt tay với cánh quân ở Tchepone sau. Giai đoạn IV: Sau khi chiếm Tchepone và phá hủy căn cứ hậu cần ở đó, các đơn vị VNCH sẽ quây về hướng đông nam, tiếp tục lục soát và phá hủy căn cứ tiếp vận ở Aloui (Aluoi) Ta Bat, A Shau, trên đường trở về biên giới. Cuộc hành quân sẽ kéo dài ba tháng, khởi diễn sau Tết Tân Hợi (tháng 27 tháng 1-1971 là ngày Tết) cho đến đầu tháng 5, khi mùa mưa bắt đầu ở Hạ Lào. <br /><br />Khái niệm “hành quân” được Bộ Tổng Tham mưu và MACV chấp nhận và truyền đạt xuống Quân đoàn I (QÐI) và Bộ Tư lệnh Quân đoàn XXIV (QÐXXIV). [19] Tuy nhiên trong thời gian QÐI và QÐXXIV bổ túc thêm những chi tiết phụ cho cuộc hành quân, Hoa Thịnh Ðốn vẫn chưa quyết định chắc chắn là HQLS719 sẽ được thực hiện hay không. <br /><br /><br />Những khiếm khuyết của hành quân Lam Sơn 719 <br /><br />Ở phần trên chúng ta thấy hoàn cảnh đưa đến quyết định thực hiện HQLS719 — hai ít ra là soạn thảo sự khả thi của kế hoạch. Phần này chúng ta nói về những khuyết điểm của HQLS719. <br /><br />Khuyết điểm trong lúc soạn thảo <br />a. Sau khi Toà Bạch ốc và BTMLQHK đồng ý kế hoạch HQLS719, ngày 6 tháng 11-1970 Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương yêu cầu MACV soạn thảo kế hoạch. [20] Hôm sau, 7 tháng 11, Đại sứ Bunker và Đại tướng Abrams hội kiến 80 phút với Tổng thống Thiệu, trình bài những kế hoạch tấn công qua biên giới. Tổng thống Thiệu đồng ý trên căn bản ba kế hoạch đánh qua biên giới, và cho phép thực hiện ngay những kế hoạch có thể thực hiện được. [21] Ngày 11 tháng 1-1971 Tổng trưởng Quốc phòng Melvin Lair và TMT BTMLQHK, đô đốc Thomas Moorer, đến Sài Gòn và có hội kiến với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về kế hoạch HQLS719. Một lần nữa Tổng thống Thiệu tái xác định sự ủng hộ của VNCH. Vấn đề còn lại là sự ủng hộ của Vương quốc Lào. Nhưng cho đến ngày 21 tháng 1, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và VNCH vẫn chưa biết Hoàng thân Souvana Phouma của Lào có cho phép QLVNCH đem quân vào Hạ Lào hay không. Thêm vào đó, chính Tổng trưởng Ngoại giao William Rogers cũng không đồng ý kế hoạch HQLS719. Roger phản đối vì ông nghĩ đánh vào Tchepone là một kế hoạch nguy hiểm: Thành công thì không sao, nhưng nếu thật bại thì kế hoạch Việt Nam hoá của Hoa Kỳ sẽ mang tiếng xấu. Ngày 22 tháng 1, Souvana Phouma chỉ đồng ý cho QLVNCH đánh vào khu vực ở phía cực bắc vùng ba biên giới (Lào-Cam Bốt-Việt Nam, cực tây của Khâm Ðức). [22] <br />b. Với sự thuyết phục của Tổng thống Nixon, Ngoại trưởng Rogers lưỡng lự đồng ý. Sau đó Rogers ra lệnh cho Đại sứ McMurtrie Godley ở Vạn Tượng cố vấn cho Souvana Phouma lên tiếng về HQLS719. Phouma lên tiếng phản đối trước dư luận — sự phản đối có tính toán bên trong. Ðầu tiên ông lên tiếng phản đối bất cứ sự xâm phạm nào của VNCH vào lãnh thổ Lào. Rồi sau đó ông chỉ trích sự hiện diện của CSVN trên đất Lào, nói tất cả là lỗi của họ. Và cuối cùng, ông hy vọng QLVNCH sẽ... rời khỏi lãnh thổ Lào trong một, hai tuần (ý nói là hành quân càng ngắn càng tốt). <br />c. Nhưng khi thấy nhiều xung đột và bất đồng nhất từ cấp trên thẩm quyền dân sự (Bộ Quốc phòng vs Bộ Ngoại giao; Lair vs Rogers; Bộ Ngoại giao vs Nixon...) ngày 27 tháng 1 Đại tướng Abrams gởi điện văn cho TTMTLQ Thomas Moorer, nói ông sẽ hủy bỏ kế hoạch HQLS719, và sẽ chính thức loan báo với các bộ tư lệnh liên hệ vào ngày 29. Nhưng ngay ngày 27, Nixon họp với ban tham mưu và ra lệnh cho thực thực hiện Giai đoạn I của HQLS719 (QLHK tái chiếm Khe Sanh). Giai đoạn II sẽ quyết định sau, nhưng lệnh thực hiện hay hủy bỏ phải đến từ Hoa Thịnh Ðốn. [23] Ngày 29 tháng 1, Nixon ra lệnh MACV phối hợp và yểm trợ cuộc hành quân Toàn Thắng 1/71 đánh trở lại Cam Bốt với khoảng 19 ngàn quân VNCH tham dự. Nhưng quyết định tối hậu về HQLS719 vẫn chưa được thẩm quyền cao nhất quyết định. Sau cùng, ngày 4 tháng 2-1971, được lệnh của Nixon, đô đốc Moorer cho lệnh tiến hành Giai đoạn II. Và HQLS719 khởi hành. <br />Qua ba chi tiết a, b, và c trên, chúng ta thấy kế hoạch hành quân được đề nghị và soạn thảo trong sự e dè, thiếu nghị quyết, vì quá phụ thuộc vào quyết định chính trị. Kế hoạch có thể bị bại lộ từ sự thiếu quyết định này. Sự qua lại Sài Gòn của các thẩm quyền Mỹ không thể không làm cho giới lãnh đạo CSVN nghi ngờ. Càng nghi ngờ hơn khi ngày 15 tháng 12-1970, hoàng thân Phouma đã tuyên bố ở Vạn Tượng, là Lào không muốn VNCH có mặt ở Lào! Không cần suy luận nhiều, CSVN biết phải có chuyện gì Phouma mới tuyên bố như vậy. Sự thương lượng qua lại giữa Mỹ và Phouma có thể bị lộ, vì theo các nhân viên ngoại giao Mỹ, hệ thống bảo mật của chính phủ Hoàng gia Lào có nhiều lỗ thủng hơn cái... rổ! <br /><br />Thêm vào lời tuyên bố của Phouma, ba sự kiện khác xảy ra trước đó càng làm cho CSVN khẳn định về ý định của VNCH và Hoa Kỳ — hay ít ra làm cho họ chuẩn bị phòng thủ. Sau cuộc tấn công ở Cam Bốt, tháng 9-1970 Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ đổ bộ thẳng vào Ban Bak (Bản Bạc) phá hủy binh trạm 37. Hai tháng sau, 11-1970, Hoa Kỳ nhảy thẳng ra Sơn Tây, moät vị trí cách Hà Nội không hơn 50 cây số. Rồi ngày 15 tháng 1-1971 VNCH dùng 19 ngàn quân đánh trở lại Cam Bốt. Với những cuộc tấn công dồn dập như vậy, CSVN phải nghĩ Hạ Lào sẽ là mục tiêu sắp tới. [24] <br /><br />Nhiều lời đồn cho rằng CSVN đã biết được kế hoạch HQLS719 từ những điệp viên của họ có mặt ở Sài Gòn. [25] Nhưng với địa hình của vùng hành quân và trục lộ tiến quân, địch không thể nào không suy đoán được kế hoạch của chúng ta. Kế hoạch bị bại lộ không phải do sự tài tình của đối phương mà do sự trục trặc, thiếu phối hợp giữa VNCH và Hoa Kỳ. Sự thiếu phối hợp này vô tình “thông báo” kế hoạch HQLS719 cho đối phương. Trong khi Hoa Thịnh Ðốn, BTTM VNCH và MACV đồng ý sẽ giữ kín tin tức ít nhất cho đến ngày 4 tháng 2-1971 (trong nguyên thủy, ngày 4 tháng 2 là ngày chánh thức khởi đầu sự hành quân) trước khi tuyên bố ra công cộng. Nhưng ngày 25 tháng 1, nhiều sĩ quan cấp nhỏ ở Quân đoàn I đã được thông báo ngày giờ hành và kế hoạch hành quân rồi. Một trường hợp khác, ngày 22 tháng 1, chính trung tướng James Sutherland, tư lệnh QÐXXIV, chứng kiến trung tướng Hoành Xuân Lãm bàn về kế hoạch HQLS719 với chuẩn tướng Phạm Văn Phú và một số sĩ quan khác, trong khi họ đứng chờ máy bay ngoài phòng khách ở phi trường. [26] Một trường hợp khác: ngày 15 tháng 1, sau khi Bộ Tổng Tham mưu hoàn thảo kế hoạch HQLS719, chuẩn tướng Trần Ðình Thọ và thiếu tướng Donald Cowles của MACV bay ra Ðà Nẵng để thuyết trình cho tướng Lãm và Sutherland khái niệm hành quân. Ðể bảo mật nên số sĩ quan được mời tham dự rất giới hạn. Sau buổi thuyết trình, khi ra khỏi phòng chuẩn tướng Thọ gặp đại tá Cao Khắc Nhật, đại tá Nhật hỏi, “Tại sao không cho tôi tham dự buổi thuyết trình? Tôi đã hoàn tất soạn thảo kế hoạch hành quân [ở cấp quân đoàn]?” [27] <br /><br />Ngày 31 tháng 1, nhật báo The New York Times đang tải một nguồn tin — trong đó có đoạn trích từ nhật báo London Observer — về kế hoạch HQLS719. Hai ngày sau, hãng thông tấn CBS News loan tải nguồn tin. Tin tức từ đài CSB khá chính xác về mục tiêu hành quân và quân số tham dự. Tin còn loan báo luôn ngày Tổng thống Nixon cho phép tiến hành kế hoạch hành quân. Như vậy, không những CSVN biết được kế hoạch, mà cả thế giới cũng biết luôn. [28] <br /><br />Qua sự thiếu phối hợp trên, chúng ta nghĩ đối phương có thể suy luận ra kế hoạch HQLS719. Tin tức tình báo của VNCH và MACV xác định điều này, khi MACV “đọc” được những điện tín qua lại giữa các binh trạm và bộ tư lệnh Binh đoàn 559. Những điện tín cho ta biết CSVN đã thành lập một bộ tư lệnh có tên là 70B cho mặt trận “Ðường 9 - Nam Lào.” Quân lệnh chỉ thị các binh trạm 9, 27, 33, 34 chuẩn bị phòng thủ ngăn chặn cuộc tiến quân của QLVNCH. [29] Cũng từ những điện tín đó, MACV biết rõ số quân CSVN dự bị cho cuộc hành quân. <br /><br />Khuyết điểm trong cuộc hành quân <br /><br />Với tất cả những tài liệu về HQLS719 được giải mật trong những năm vừa qua, sau khi tham khảo, đa số các tác gia về quân sự đồng ý về một số khiếm khuyết quan trọng của HQLS719: (a) QLVNCH không đủ quân để đè bẹp áp lực của quân CSVN trong vùng hành quân; (b) hoả lực và không vận của QÐXXIV không đủ để yểm trợ cho lực lượng hành quân; (c) hệ thống quân giai của Hoa Kỳ và VNCH không được xác định rõ ràng và thi hành triệt để trong suốt cuộc hành quân, làm cho những quân lệnh không được thực hiện; và, (d) tin tức tình báo sai lạc đưa đến nhiều trở ngại cho vấn đề tiếp liệu, hoả lực dự trù, và sự thay đổi bất thần, giữa đường, của kế hoạch. <br />a. Tháng 3-1967 ở hội nghị thượng đỉnh Guam, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên đề nghị với Tổng thống Lyndon Johnson một kế hoạch đánh qua Hạ Lào để cắt đường tiếp tế CSVN vào nam. Tổng thống Johnson không trả lời ngay lúc đó, nhưng cuối năm 1967, Đại tướng William Westmoreland ra lệnh cho ban tham mưu MACV soạn thảo một kế hoạch hành quân tương tự như HQLS719. Theo lời một đại tá phụ trách soạn thaûo Hành Quân OPLAN EL Paso, khái niệm hành quân cần ba sư đoàn Việt-Mỹ, tương đương 60 ngàn quân: một sư đoàn không kỵ và một sư đoàn bộ binh (Mỹ); và một sư đoàn Nhảy dù VNCH. Lực lượng tiếp liệu và yểm trợ cho đạo quân đó phải có khả năng yểm trợ cho cấp quân đoàn. Khái niệm hành quân đặt nặng vấn đề tiếp liệu bằng không vận, vì nhu cầu của lực lượng tại mặt trận cần ít nhất là 2.975 tấn quân nhu dụng một ngày. [30] <br /><br />Kissinger trong hồi ký có nói khi ông hỏi Đại tướng Westmoreland về sự khả thi của HQLS719, Westmoreland nói cuộc hành quân cần ít nhất là bốn sư đoàn cộng để tấn công vào Tchepone. Và phải tấn công chớp nhoáng bằng trực thăng vận chứ không thể đánh đường bộ chậm chạp như đang thực hiện. [31] Qua những chi tiết trên, chúng ta thấy ba sư đoàn VNCH quá ít để áp đảo lực lượng đối phương trong những ngày đầu — khi quân CSVN chưa huy động tất cả lực lượng trừ bị của họ. Ở cao điểm của HQLS719, VNCH có 30.746 quân ở chiến trường Lào, gồm 16 tiểu đoàn tác chiến và 12 tiểu đoàn pháo binh. Trong khi đó, tại vùng hành quân, BTL 70B của CSVB có hơn 60 ngàn quân. [32] <br /><br />Như tất cả học viên quân sự đều thuộc nằm lòng, khi tấn công thì quân tấn công cần tỉ số ba trên một nếu muốn thành công. Trong HQLS719 quân tấn công chỉ bằng phân nữa quân phòng thủ, mà lại tấn công vào một địa hình do đối phương hoàn toàn làm chuû. <br />b. Yểm trợ và tiếp liệu cho cuộc hành quân đến từ QÐXXIV Hoa Kỳ. Quân đoàn XXIV được thành lập từ tháng 8-1968, và thay thế Quân đoàn III TQLC ở Vùng I VNCH. Sau Giai đoạn I của cuộc hành quân (bảo vệ đường 9 từ Ðông Hà đến Lao Bảo và tái chiếm phi trường Khe Sanh), vai trò của QÐXXIV được đặt nặng vào tiếp tế không vận và yểm trợ bằng không pháo (aerial artillery/ pháo binh của trực thăng võ trang) — và sự sống còn của các lực lượng ở chiến trường tùy thuộc vào sự hữu hiệu của hai khả năng này. Theo những tài liệu đến từ MACV, QÐXXXIV không đủ khả năng để yểm trợ cho cuộc hành quân, về hoả lực cũng như về không vận. <br /><br />Tài liệu giải mật từ MACV cho thấy QÐXXIV có gần 600 trực thăng để phục vụ cho HQLS719. [33] Nhưng khả năng hoạt động của số trực thăng bị giới hạn vì hoả lực, thời tiết và bảo trì — những yếu tố mà hai tuần vào cuộc hành quân, MACV và QÐXXIV mới nhận ra. Chỉ nói về phương diện tiếp tế lương thực thôi, đạo quân 30 ngàn người ở chiến trường cần 150 phi vụ trực thăng một ngày để thoả mãn — và đây chỉ là nhu cầu tối thiểu với một ký thực phẩm và bốn lít nước cho mỗi người. [34] Qua tài liệu, chúng ta thấy những căn cứ hoả lực rất cần nước. Tác giả đại úy pháo binh Trương Duy Hy nói về những cảnh giành giựt nước tiếp tế trên đồi 30: thiếu nước uống, thiếu nước để lau chùi nòng súng pháo binh.. Tiểu đoàn 2 Nhảy dù trước khi di tản khỏi căn cứ hoả lực 30, đánh một điện tín lên trời, yêu cầu phi cơ liên lạc thông báo với tư lệnh sư đoàn Nhảy dù về tình trạng tiếp tế nguy ngập của tiểu đoàn. “Bị bao vây đã 10 ngày, có 200 thương vong, không có tiếp tế... không nước và lương thực hai ngày qua. Cần tiếp tế lập tức khi trời sáng.” [35] <br /><br />Ðến ngày 24 tháng 2 BTL MACV bùng nổ vì vấn đề thiếu trực thăng: Ðại tướng Abrams điên lên vì sự quản trị — hay thiếu quản trị — nhu cầu không vận của BTL QÐXXIV. Sĩ quan dưới quyền của tướng Sutherland báo cáo về MACV là mặc dù tình hình trực thăng nguy ngập, nhưng trung tướng Sutherland vẫn không có một phản ứng nào thích hợp để giải quyết. Trong một trang giải mật của tác phẩm The Abrams Tapes, chúng ta đọc được những tiếng chửi thề của tư lệnh và tư lệnh phó MACV về sự quản trị và điều khiển nhu cầu cung ứng trực thăng cho mặt trận Hạ Lào. Chưa hả giận, tướng Abrams bay ra BTL QÐ XXIV để thị sát và... chửi thề tiếp. [36] Cũng biết thêm, Không quân Hoa Kỳ đã làm tất cả những gì họ có thể làm được để chuyển quân nhu dụng ra Ðông Hà và Khe Sanh. Từ Ðông Hà hàng có thể di chuyển bằng quân xa về Khe Sanh. Nhưng từ từ Khe Sanh ra vùng giao chiến thì chỉ trông chờ vào trực thăng. Sau ba ngày hành quân, ngày 11 tháng 2, Đại tướng Lucius Clay, tư lệnh Không lực 7 than thở trong buổi họp ở MACV: “Ngoài những phi vụ yểm trợ cho cuộc hành quân này [HQLS719] tôi bay 12.000 phi vụ yểm trợ một tháng. Tôi bay 21.000 phi vụ chuyên chở. Tôi bay 850-900 phi vụ thám thính. Ý tôi muốn nói là vấn đề bảo trì... chúng ta chỉ có thể bay đến một giới hạn nào đó thôi.” Tướng Abrams cũng không thể phủ nhận là khả năng không vận và không lực của quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam trong thời điểm đó đã đến mức tối đa. Chính tướng Abrams cũng thốt lên ý nghĩ đó vào ngày 27 tháng 2 — hai ngày sau khi đồi 31 của Lữ đoàn 3 Nhảy dù thất thủ: “Chúng ta đang ngập đầu với gánh nặng, ở Cam Bốt cũng như ở Lào.” Ở mặt trận Cam Bốt, ngày 23 vừa qua tướng Trí vừa tử nạn trực thăng. Và đến ngày 27, MACV báo cáo quân lực VNCH có 21.000 quân tại mặt trận Cam Bốt. Ðó là lý do tại sao Hoa Kỳ không còn khả năng không vận. <br /><br />Kế hoạch HQLS719 cũng tính sai về khả năng yểm trợ hoả lực, không pháo từ trực thăng ở những bãi đổ quân. Trực thăng võ trang AH-1G hay những chiến UH-1C biến cải thành võ trang, không đủ hoả lực để đè bẹp phòng không của đối phương trên đường bay vào bãi đáp, hay hộ tống những phi vụ chở quaân. Một lần nữa, MACV và QÐXXIV không ước lượng được sự cuồng nộ của phòng không đối phương — càng lúc càng gia tăng theo thời gian của trận chiến. Khi MACV yêu cầu không quân Hoa Kỳ yểm trợ và tham dự vào kế hoạch dọn bãi đáp thì số trực thăng thiệt hại đã lên khá cao. Trước khi đó, thông thường BTL QÐXXIV chỉ yêu cầu 10-12 phi vụ dội bom chiến thuật từ không quân, rồi pháo binh và không pháo trực thăng đàn áp hoả lực phòng không để cho trực thăng đáp xuống. Nhưng sau 20 ngày hành quân, 31 trực thăng bị hủy hoại và 230 chiếc khác bị trúng đạn, phi công trực thăng Lục quân Hoa Kỳ e ngại hơn. Ngày 3 tháng 3, khi đổ quân vào bãi đáp LoLo ở đông nam Tchepone, trực thăng gặp kháng cự mạnh của phòng không. Cuộc đổ quân bắt đầu từ 10 giờ sáng, bị nhiều gián đoạn vì hoả lực của đối phương, đến 6:30 chiều mới hoàn tất. Kết quả: Liên đoàn 101 Không vận Trực thăng có 20 bị trúng đạn không cất cánh được; bảy bị hủy diệt hoàn toàn; và 42 bị trúng đạn hư hại. Sự khinh thường hoả lực phòng không của đối phương gây nhiều trở ngại và thiệt hại cho lực lượng tấn công. Cũng vì khinh thường đối phương nên QÐXXIV không “mời” Không lực 7 góp ý kiến vào những kế hoạch dọn bãi, nhất là những bãi đáp để tiến vào Tchepone vào đầu tháng 3. Sau lần thiệt hại ở bãi đáp LoLo, QÐXXIV chấp nhận phương cách dọn bãi đổ quân của Không lực 7. [37] <br />c. Hệ thống chỉ huy và điều khiển của Hoa Kỳ và VNCH trong cuộc hành quân. Vấn đề chỉ huy và điều khiển phía VNCH đã được báo chí, sách vở bàn luận nhiều. Ở đây người viết chỉ lặp lại một số chi tiết đáng nhớ. Ðặt hai trung tướng Lê Nguyên Khang và Dư Quốc Ðống dưới quyền thống thuộc của trung tướng Hoàng Xuân Lãm gây nhiều trở ngại cho vấn đề chỉ huy và điều khiển. Sự bất hợp tác — và bất phục — tùng dĩ nhiên xảy ra. Tương tự, sự bất hợp tác hiện hữu khi Lữ đoàn 1 Nhảy dù (đại tá Lê Quang Lưỡng) nằm dưới quyền thống thuộc của Chiến đoàn 1 Ðặc nhiệm (đại tá Nguyễn Trọng Luật). Sự giậm chân tại chỗ năm ngày ở Bản Ðông của quân Dù và Thiết kỵ; cuộc giải cứu thất bại đồi 31, đêm 25 tháng 2... là những bằng chứng về sự bất hợp tác này. Tài liệu cho thấy sự bất đồng xảy ra khi tướng Khang đập bàn lúc nói chuyện với tướng Lãm. Tướng Lãm bay về Dinh Ðộc Lập để than phiền với Tổng thống Thiệu và Đại tướng Viên về tướng Ðống. [38] Cũng chính vì sự bất hợp tác này, trung tướng Lãm đã thay đổi kế hoạch giữa lúc trận chiến đang xảy ra: Sư đoàn 1 Bộ binh thay Sư đoàn Nhảy dù nhảy vào Tchepone; TQLC từ Khe Sanh sẽ đổ bộ vào những cao điểm phía nam đường 9, thay thế bộ binh của Sư đoàn 1. Sự thay thế này đã gây nhiều thiệt hại cho Sư đoàn TQLC ở hai cao điểm Hotel và Delta. <br /><br />Hệ thống chỉ huy và điều khiển của Hoa Kỳ trong HQLS719, tuy không có vấn đề bất tuân hệ thống quân giai, nhưng họ lại quên chỉ định một quân giai để chỉ huy và điều khiển: Ở bộ tư lệnh tiền phương ở Khe Sanh, cho đến ngày 24, Hoa Kỳ không có một sĩ quan cấp tướng nào để chỉ huy và điều khiển các ông đại tá của các quân chủng khác nhau (sĩ quan liên lạc/ phối hợp của Không duân, Hải quân, Thuỷ quân Lục chiến...). Ngày 25 tướng Abrams mới cho một trung tướng ra bộ chỉ huy tiền phương để duyệt xét sự hợp tác và phối hợp giữa Không quân và Lục luân. Thêm vào sự khó khăn là các sĩ quan cố vấn cho các sư đoàn VNCH làm việc trực tiếp cho MACV, nên họ không phải trả lời cho BTL QÐXXIV, và họ điều khiển chiến thuật, cung cấp tiếp liệu, yêu cầu yểm trợ theo ý họ. Ðôi khi MACV phải giải quyết những trở ngại này từ Sài Gòn. [39] <br /><br />Một sự thiếu hiệu quả khác của hệ thống chỉ huy và điều khiển là nằm xa nhau, khó “chạy qua, chạy lại” để hỗ trợ. BTL QÐXXIV nẵm ở Ðà Nẵng; QÐ I nằm ở Huế và Quảng Trị; và bộ chỉ huy tiền phương thì nằm ở Khe Sanh. Hệ thống chỉ huy như vậy không bảo đảm được sự liên tục của quân lệnh. <br />d. Tin tức tình báo sai lạc trong cuộc hành quân. Khi tấn công vào một địa hình do địch làm chủ hoàn toàn, ở một mặt trận xa hậu cứ, và đường tiếp tế thì giới hạn bởi chính địa hình đó, tin tức tình báo về lực lượng của đối phương rất quan trọng. Mọi sự sai lệch về tình báo sẽ là một yếu tố quan trọng đưa đến thắng thua trong trận chiến. Nhưng rất tiếc, tin tức tình báo mà ban tham mưu VNCH và Hoa Kỳ dựa vào để soạn thảo kế hoạch HQLS719 thì hoàn toàn sai lạc. Sai lạc về hoả lực, quân số, và địa hình của mặt trận gây nhiều khốn đốn cho lực lượng tấn công. <br /><br />Hoả lực phòng không. Ước tính tình báo sơ khởi do Không lực 7 cung cấp, cho biết Binh đoàn 559 và các đơn vị trực thuộc Binh đoàn 70B có khoảng 225-275 súng phòng không. Dựa vào tin tức này, QÐXXIV và Liên đoàn 101 Không vận Trực thăng nghĩ họ có thể “giải quyết được.” Càng nghĩ họ sẽ giải quyết và áp chế được số lượng phòng không địch ở Hạ Lào, nên chẵng những Lục quân không xin yểm trợ tối đa của Không quân, mà họ còn cho ước tính của Không quân quá cao. Nhưng ngược lại, ước tính của Không quân quá thấp: Khi lâm trận thì mới biết CSVN có từ 525-575 súng phòng không ở mặt trận. [40] Nhiều nhất là loại 12.7 ly. Loại súng này không lớn, không bắn được cao, nhưng đủ để triệt hạ những trực thăng đổ bãi. Và vũ khí đó đã làm thay đổi trận chiến rất nhiều. Ước lượng về hoả lực địa pháo cũng hoàn toàn sai: Không lực và pháo binh Ðồng Minh không phản pháo hay áp đảo được tất những ụ pháo của đối phương. Ðầu tháng 3, trung tướng Sutherland gọi điện thoại về nói với tư lệnh phó MACV Fred Weyand, “Ðịch có mặt mọi nơi. Súng cối và pháo binh gây nhiều phiền phức...” Tiểu đoàn 2 Nhảy dù di tản khỏi đồi 30 không phải vì áp lực bộ binh của địch mà là vì pháo. Hơn 1.000 quả pháo bắn vào đồi 30 trong hai ngày trước khi tiểu đoàn di tản, hủy diệt tất cả pháo binh của hai pháo đội đóng trên đồi. [41] <br /><br />Sai lạc về địa hình. Không ảnh do Không lực 7 cung cấp và ước lượng cho biết đường 9 từ Lao Bảo về Bản Ðông lưu thông được. Xăng và nước uống sẽ được chuyển vận bằng quân xa theo lộ trình đó để tiếp tế cho mặt trận. Nhưng không ảnh hoàn toàn sai: Ðường 9 bị không quân dội bom từ năm 1966, cắt ra nhiều đoạn. Trên đường, đôi khi có nhiều lổ thủng bề ngang 6-7 thước, sâu 2-3 thước. [42] Khi những chuyến xa “tanker” loại 5.000 gallons gặp những khúc đường đó, họ không băng qua được được. Xăng và nước chỉ đến được Khe Sanh, từ đó ra chiến trường phải là trực thăng. Di chuyển bằng đường bộ không được gaây một gánh nặng cho không vận. Nước cho người đã là một gánh nặng; nặng hơn là nhiên liệu cho các lực lượng cơ giới. Lực lượng cơ hữu của Lữ đoàn 1 Kỵ binh có tổng cộng 62 xe tăng và 162 thiết giáp. Chưa kể những quân xa đi theo. [43] Cơ giới mà không có xăng thì cũng như không. Trên đoạn đường rút quân về biên giới, một số quân xa, thiết giáp, xe tăng, bị bỏ lại chỉ vì hết xăng. Khi BTL QÐXXIV biết được chuyển vận sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào không vận, thì khả năng không vận của quân đoàn đã quá mức tối đa, không còn xây chuyển được. <br /><br />Một sai lạc về địa hình rất căn bản xảy ra trong HQLS719 nói lên sự thất bại của nguyên kế hoạch: lính đi qua Hạ Lào không được trang bị y phục cho thời tiết lạnh. Trên những cao độ ở Hạ Lào, ban đêm lính rất khổ sở vì lạnh. Rừng núi ở Hạ Lào vào tháng 2, trên đồi cao mà không trang bị quân phục ấm cho lính thì đó là một ước tính thiếu sót không hiểu được. Ðiều đó nói lên tất cả sự sơ sót của kế hoạch HQLS719. <br /><br />© 2008 talawas <br />________________________________________<br />[1]Sự quan trọng của Quyết nghị 9 được Bộ Tổng Tham mưu VNCH (BTTM VNCH) và Bộ Tư lệnh MACV (BTT MACV) nhắc đến nhiều lần trong những buổi họp quan trọng. Ðọc Lewis Sorley, The Abrams Tapes, trang 278-79, 282, 305. Ðiểm chánh của Nghị quyết 9 là CSVN không còn chủ trương một chiến thắng toàn diện bằng quân sự nữa, trái lại các đơn vị phải trở lại thế thụ động, đóng quân tại chổ cho đến khi tình hình thay đổi thuận lợi hơn. Ði đôi với chiến thuật án binh bất động, bộ tư lệnh B-3 (Tây Nguyên) đưa tất cả những đơn vị không cần thiết (tiếp vận và hậu cần) trở ngươïc về Bắc vì vùng đóng quân không còn gạo để nuôi lính. Tài liệu cho biết hơn 30 ngàn quân phải lội ngược trở về Bắc trong năm 1969-70. Ðọc Thượng tướng Ðặng Vũ Hiệp, Ký ức Tây Nguyên, trang 130-41; trung tướng Ðồng Sĩ Nguyên, Ðường xuyên Trường Sơn, trang 151-53. <br />[2]Một vài con số của năm 1969-70. Với tình hình an ninh làng xã được bảo vệ, mùa lúa năm 1970 miền Nam sản suất 6.5 triệu tấn lúa, nhiều nhất từ trước đến giờ. Thiệt hại của CSVN năm 1969 là 156.000 chết; và năm 1970 là 103.000. VNCH có 21.000 tử thương cho năm 1969; và 23.000 cho năm 1970. (Các con số được gom lại thành số thành số chẵn.) Một chi tiết khác cho thấy CSVN giới hạn lại những hoạt động quân sự trong năm 1970: Năm 1967 CSVN xâm nhập 101 ngàn quân; năm 1968, 244 ngàn; và 1969, 104 ngàn. Nhưng năm 1970, số quân xâm nhập chi còn hơn 57 ngàn. Con số này chỉ để bổ sung vào số thiệt hại trong năm đó. Tài liệu, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, Office of Assistant Chief of Staff, Intelligence (CFP-ODCSOPS-3/ 18.1. June 30, 1972).<br />[3]Chuẩn tướng Trần Ðình Thọ, The Cambodian Incursion, trang 171-72; 193-94<br />[4]Theo đại tướng Donn Starry (một đại tá lữ đoàn trưởng trong cuộc hành quân qua Cam Bốt), địa hình ở Cam Bốt lý tưởng đến độ, tại một mặt trận, 250 xe thiết vận xa dàn hàng ngang, cách nhau 25 thước một chiếc, và tấn công thẳng trên một mặt trận sáu cây sáu cây số chiều ngang, “áp đảo mọi kháng cự của đối phương.” Donn A. Starry, Mounted Combat in Vietnam, trang 172.<br />[5]Quân lực Hoa Kỳ rút quân ra khỏi lãnh thổ Cam Bốt vào ngày 30 tháng 6-1970. QLVNCH vẫn còn quân ở Cam Bốt để giúp đỡ quân đội Hoàng Gia Cam Bốt cho đến cuối tháng 8-1970. Tuy nhiên từ tháng 8 cho đến cuối năm 1970, QLVNCH vẫn ra vào lãnh thổ Cam Bốt tùy theo nhu cầu an ninh. Ðầu năm 1971, QLVNCH mở cuộc hành quân Toàn Thắng 1/71, với hơn 19 ngàn quân tham dự. Tài liệu chi tiết nhất về những cuộc hành quân qua Cam Bốt năm 1970 là, chuẩn tướng Trần Đình Thọ, The Cambodian Incursion. Gọi là những cuộc hành quân, vì ba cánh quân VNCH-Mỹ có tên khác nhau khi đánh qua Cam Bốt: Hành quân Toàn Thắng là cánh quân từ Quân đoàn III; Hành quân Cửu Long, là các đơn vị từ Quân đoàn IV; và Hành quân Bình Tây, đến từ Quân đoàn II. Trong một trường hợp, hành quân Toàn Thắng 42/ Ðại Bàng, để chỉ sự phụ trách riêng biệt của Sư đoàn Nhảy dù VNCH, tại một vùng trách nhiệm, trong một thời gian đặc thù. Ðọc Trần Ðình Thọ, sđd, cùng chương. <br />[6]Các quân lệnh trao đổi giữa BTL Thái Bình Dương và BTL MACV nằm trong Willard J. Webb, The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, 1971-1973, Part I, trang 15-20. Quân lệnh của tướng Abrams gởi cho các trưởng phòng của BTL MACV lưu trữ trong Abrams Special Collection, U.S. Army War College, Carlisle, Pennsylvania. <br />[7]Tài liệu, sách liên hệ về chiến tranh ở Lào, đọc Christoper Robbins, The Ravens: The Men Who Flew in America’s Secret War in Laos. Về những cơ sở điện tử, hệ thống ra-đa trên đất Lào, đọc Timothy Castle, One Day Too Long: Top Secret Site 85 and the Bombing of North Vietnam.<br />[8]Trung bình, một tiểu đoàn giao chiến hai ngày, cần hơn năm tấn đạn. Lương thực và những tiếp liệu khác chưa kể. Con số này đến từ cấp số vũ khí và đạn trang bị cho một tiểu đoàn bộ binh căn bản. Tài liệu và phương thức tính đến từ A Study of Data Related to Viet Cong/ North Vietnamese Army Logistics and Manpower, trang 25-35 (Document 5-3-17, Top-Secret, LBJ Library). <br />[9]Nguyễn Việt Phương, một cựu đại tá trong Ðoàn 559, ghi lại một số chi tiết về cơ cấu ĐHCM trong Trường Sơn: Ðường Hồ Chí Minh huyền thoại (2 quyển). Sách của các tác giả CSVN viết về ĐHCM nhiều, nhưng chất lượng không có. Nếu đọc kỹ và đối chiếu nhiều tài liệu với nhau, đọc giả sẽ thấy nhiều mâu thuẫn hiển nhiên. Tác giả viết bài này có nhận định tổng quát thư liệu về ĐHCM của CSVN trong “Binh đoàn, binh trạm, và đường đi B: Ðọc một vài quyển sách về Ðường Hồ Chí Minh” (Chuyên san Dòng sử Việt, Số 4, năm 2007. Có thể đọc trên Internet ở web site www.talawas.org).<br />[10]Tổng cục Hậu cần, Vận tải quân sự chiến lược trên Ðưòng Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ, trang 435. Trong số 970 súng phòng không, có 416 súng là loại 12.7 ly, số còn lại là từ 20 ly trở lên; và, Project CHECO, Headquarters Seventh Air Force, Commando Hunt V. Ðại bác phòng không 37 ly có tầm hiệu quả ở cao độ 10.000 bộ; 85 ly, 25.000 bộ; 100 ly, 31.000 bộ. AC-130 hoạt động khoảng 9.500 bộ; B-52, từ 28.000 đến 31.000 bộ.<br />[11]Về cơ cấu của MACV-SOG (Military Assistance Command-Studies and Observations Group) và chi tiết những điệp vụ xâm nhập vào Lào, đọc Military Assistance Command Vietnam, Command History, 1970. Appendix B, Part V, MACSOG Dcumentation Study (July 1970). Studies and Observations Group là một mỹ danh của Special Operations Group, một liên đoàn Lực lượng Ðặc biệt phụ trách về tình báo chiến lược cho BTL MACV.<br />[12]Sách của CSVN ghi tên các của khẩu là Ðường 12-Mụ Giạ-Seng Phan; Ðường 20-Ta Lê-Lùm Bùm; Ðường 18-Ðèo 700-Tà Lao. Không thấy tài liệu của họ nói về “Box Delta,” một cửa khẩu trọng điểm nằm ngay dưới vĩ tuyến 17 và biên giới Lào. <br />[13]Về những chiến dịch dội bom Commando Hunt ở Hạ Lào, đọc Project CHECO, Headquarters Pacific Air Forcce, Commando Hunt V. Trong cao điểm của chiến dịch dội bom chiến lược, Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược (Strategic Air Command là BTL điều khiển pháo đài bay B-52) cung cấp cho MACV 1.400 phi vụ B-52 một tháng. Khoảng 300 phi vụ được sử dụng bên trong lãnh thổ VNCH, số còn lại cho những mục tiêu ở Hạ Lào. <br />[14]Henry Kissinger, White House Years, trang 1004-05.<br />[15]H.R Haldeman, The Haldeman Diaries, trang 224-26; 239. Haldeman là Chief of Staff của tổng thống Nixon. Alexander Haig, Inner Circles, trang 273-76. Nhưng theo tác giả Seymour Hersh (the Price of Power: Kissinger in the Nixon White House, trang 308) thì chính Haig là người đề nghị kế hoạch HQLS719 với Kissinger. Những sự đổ thừa qua lại cho thấy không ai nhận làm tác giả một kế hoạch bất hoàn hảo — nếu không nói là thất bại. <br />[16]Ðại tướng Bruce Palmer, Jr., The 25-Year War, trang 108; Sorley, A Better War, trang 234-35. Từ tháng 1-1970 đến tháng 3-1971 tướng Haig đến Sài Gòn ba lần. Mục đích của chuyến đi ngày 13 tháng 12-1970 thì đã nói trên; chuyến viếng thăm giữa tháng 3-1971, là để thẩm định tình hình HQLS719 đang diễn ra. “... kế hoạch đánh qua biên giới.” Là ám chỉ hành quân Toàn Thắng 1/71, đánh trở lại vùng đồn điền Chup, Krek, và phía nam Kompong Cham. <br />[17]Tài liệu do National Archives giải mật và được nhật báo The Washington Post đăng tải ngày XXX. <br />[18]Một số các tài liệu Hoa Kỳ nói về HQS719 đôi khi dưới tên Dewey Canyon II. Thật sự Dewey Canyon II là một phần của HQLS719, và chỉ là những hoạt động của quân lực Hoa Kỳ ở bên này biên giới. Lý do gọi là Dewey Canyon II, vì hai năm trước đó, tháng 1-1969, TQLC Hoa Kỳ đã có hành quân Dewey Canyon đánh qua biên giới Lào ở khu vực A Shau, vào căn cứ hậu cần 611 và 609 do Binh trạm 42 phụ trách. Cuộc hành quân năm 1969 rất giới hạn (sâu vào biên giới Lào từ bốn đến sáu cây số) nhưng phá hủy và tịch thu nhiều vũ khí, quân nhu dụng của CSVN. Lewis Sorley, The Abrams Tapes, trang 129, 156; Shelby Stanton, The Rise and Fall of An American Army, trang 295-300. <br />[19]Vì hành quân ở vùng trách nhiệm của Quân đoàn I, trung tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Quân đoàn I được cử làm tư lệnh cuộc hành quân. Quân đoàn XXIV là BTL Mỹ phụ trách Vùng I. Trước đây, BTL Quân đoàn III TQLC (III Marine Amphibious Force) phụ trách địa phận này. Cuối năm 1969, TQLC Hoa Kỳ bắt đầu rời Việt Nam trong chương trình Việt Nam hoá, và MACV lập ra BTL Quân đoàn XXIV để thay cho III MAF. <br />[20]Ngày tháng và nội dung của những điện văn, quân lệnh trao đổi giữa BTL TBD và BTL MACV nằm trong The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, 1971-1973, Part I. Một số điện văn trao đổi giữa BTMLQHK, BTL TBD, MACV được sơ lược trong Lewis Srley, A Better War, trang 228-246. <br />[21]Ba kế hoạch tấn công qua biên giới là, tấn công qua Cam Bốt, Hạ Lào, và đột kích bí mật qua vĩ tuyến 17. Cuộc tấn công qua Cam Bốt là hành quân Toàn Thắng 1/71, với 19 ngàn quân tham dự. Lewis Sorley, sđ <br />[22]Ðây là khu vực của binh trạm 37, nằm trên một vùng có tên là Ban Bak (tài liệu CSVN gọi là Bản Bạc), khoảng 60 cây số từ biên giới Việt Nam. Nếu nhìn bản đồ quân sự, vùng này nằm bên trái quốc lộ 14, hướng tây của Khâm Ðức. Ðây là caên cứ 609, căn cứ hậu cần lớn nhất sau Tchepone. Trung tuần tháng 9-1970, LLÐB Mỹ tấn công vào binh trạm này trong cuộc hành quân Tailwind. Trong cuộc hành quân đó, LLÐB Mỹ bị vu cáo đã dùng vũ khí hơi độc Sarin. Bộ Quốc phòng Mỹ phải giải mật một số hồ sơ về cuộc hành quân để phản đối tin đồn sai lạc này. <br />[23]The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, trang 24-25. <br />[24]Một ký giả Mỹ viếng thăm Hà Nội kể lại, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch nói Tổng thống Nixon có khuynh hướng làm những chuyện táo bạo, và chính phủ Hà Nội phải dự kiến nhiều viễn tượng bất ngờ sau hai lần bị tấn công vào Ban Bak và Tây Sơn. Seymour Hersh, The Price of Power, trang 306.<br />[25]Larry Berman, trong tác phẩm về điệp viên Phạm Xuân Ẩn, nói Ẩn biết được kế hoạch HQLS719 từ một “đại tá Nhảy dù và LLÐB.” Tuy nhiên, qua những gì chúng ta đọc được trong sách, đây chỉ là những lời đoán mò, nếu không là nói dóc của Phạm Xuân Ẩn. Ðọc Perfect Spy: The Incredible DoubleLife of Pham Xuan An, trang 184-85. <br />[26]Ðại úy Trương Duy Hy trong Tử thử căn cứ hoả lực 30 Hạ Lào, cho biết ngày 25 tháng 1-1971, ông và nhiều sĩ quan được gọi về bộ chỉ huy tiểu đoàn pháo binh để nghe thuyết trình về cuộc hành quân. Trong buổi họp, tin chánh thức cho biết hành quân sẽ khai diễn sau Tết Tân Hợi (Mùng Một Tết năm 1971 là ngày 27 tháng 1). Về chuyện tướng Lãm nói chuyện với tướng Phạm Văn Phú ở phi trường, đọc John Prados, The Blood Road: The Ho Chi Minh Trail and the Viet Nam War, trang 322-23. <br />[27]Ðọc thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Lam Son 719, trang 34. Ðại tá Cao Khắc Nhật là tham mưu trưởng Quân đoàn I; Chuẩn tướng Trần Ðình Thọ, Phòng 3, BTTM; thiếu tướng Donald H. Cowles, Phòng 3, MACV. <br />[28]The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, trang 26-28. Phóng viên Marvin Kalb nói trúng phóc ngày Nixon ra lệnh tiến hành Giai đoạn I của HQLS719.<br />[29]Sorley, The Abrams Tapes, trang 428, 525, 530, 599. Binh trạm 9 phụ trách vùng Tchepone, Bản Cộ, Thà Khống (đường 18); binh trạm 27 phụ trách đường 16, đi về Bản Ðông; 33 và 34 phụ trách đường 914 từ Tchepone về Bản Ðông, nằm phía tây nam đường 9. <br />[30]Ðại tá John M. Collins, Oplan El Paso, Joint Forces Quarterly, Autumn/Winter 1997-98, trang 118. Quân số cho cuộc hành quân là 60 ngàn, nhưng vùng hoạt động của Oplan El Paso lớn hơn HQLS719: Ðông Khe Sanh, Bắc sông Xe Banghiang, tây Muong Phine, nam Muong Nong. Sư đoàn của Mỹ đông hơn của VNCH rất nhiều: sư đoàn không kỵ có quân số 22 ngàn; sư đoàn bộ binh điển hình có 16 ngàn. Con số 60 ngàn cho ba sư đoàn, chắc là cộng thêm những đơn vị công binh, thiết kỵ, pháo binh cơ hữu của sư đoàn. <br />[31]Kissinger, sđd, trang 1005. Trong trang này, Kissinger nói ông nói chuyện với Westmoreland ngày 23 tháng 2 (hai ngày trước khi căn cứ hoả lực 31 thất thủ; năm ngày sau khi hai tiền đồn của BÐQ đã mất), và Westmoreland nói bốn sư đoàn là lực lượng tối thiểu cho cuộc hành quân. Nhưng ở trang 906, Kissinger lại nói kế hoạch trong quá khứ do Westmoreland soạn thảo cần đến hai quân đoàn lính Mỹ (chữ nghiên của người viết). Kissinger nói hai quân đoàn cũng có lý do, nếu một sư đoàn là 10 ngàn quân (ba sư đoàn là một quân đoàn; 60 ngàn quân trong ước tính của Oplan El Paso, trên căn bản, là hai quân đoàn). <br />[32]Số quân 30.746 VNCH đến từ phiếu đệ trình, Phòng 3, BTTM, Gởi Tổng trưởng Quốc phòng, đề mục: Tổng kết tổn thất bạn/ địch trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Ngày 10 tháng 4-1971, BTTM cho lưu hành tài liệu này để cho các cơ quan liên hệ sử dụng khi nói về thiệt hại bạn/ địch trong cuộc hành quân. Nhưng phải nhấn mạnh ở đây, 30 ngàn quân là tổng số quân chánh thức tham dự HQLS719. Số quân thật sự ở mặt trận quá 19 ngàn trong cao điểm cuộc hành quân. Số quân 60 ngàn CSVN đến từ Merle Pribbenow, translator, Victory in Vietnam: The Official History of the People’s Army of Vietnam, 1954-1975, trang 274 (Ðây là bản dịch cuốn Thời kỳ trưởng thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hà Nội: Quân Ðội Nhân Dân, 1994.) . Trong tài liệu này, CSVN nói đầu tháng 2-1971 ở vùng hành quân họ có năm sư đoàn bộ binh (308, 304, 320, 324, và 2); hai trung đoàn độc lập (27 và, 278); tám trung đoàn pháo binh; ban trung đoàn công binh, ba tiểu đoàn xe tăng; sáu trung đoàn phòng không; tám tiểu đoàn đặc công; và các đơn vị hậu cần, vận tải. Tài liệu đến từ Ban Tham mưu Liên quân cho biết cuối tháng 3, ở một vài mặt trận CSVN có quân gấp ba lần quân VNCH. The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietam, trang 43.<br />[33]Người viết dùng hai tài liệu cho phần này, Lewis Sorley, The Abrams Tapes; và, Headquarters 101st Airborne Division (Airmobile), Final Report: Airmobile Operations in Support of Operation LAMSON 719 (24 April 1971). Phần lớn trực thăng, 426 chiếc, đến từ Liên đoàn 101 Không vận Trực thăng (101st Aviation Group), số còn lại đến từ những tiểu đoàn xung kích, không pháo, cứu thương, quan sát. Trong số gần 600 trực thăng này, chỉ có 53 là loại chuyên chở nặng, CH-47, và hơn 100 chiếc loại AH-1G (gunship). Thêm vào đó khả năng “chuẩn bị tác chiến” (sẳn sàng để bay) của tất cả trực thaêng chỉ được 70%. Ba tuần cuối cùng của trận chiến, QÐXXIV “mượn” được thêm hơn 100 trực thăng nữa, nâng tổng số lên gần 700 chiếc.<br />[34]Ba lon gạo và 250 grams đồ ăn là một ký; bốn lít nước (tương đương một gallon) là bốn ký. Ba mươi ngàn người cần 150.000 ký (150 tấn). Trọng tải an toàn cho trực thăng UH-1 là 1.000 ký một phi vụ. Trở lại kế hoạch Oplan El Paso, dự liệu tiếp tế cho quân số 60 ngàn là 3.000 tấn một ngày — 50 ký cho mỗi đầu người. Dĩ nhiên con số này tính luôn quân nhu dụng cần để tác chiến. Giả dụ HQLS719 chỉ cần 1/3 nhu cầu của Oplan El Paso (16.6 ký mỗi đầu người), thì phải cần gần 500 phi vụ để cung ứng cho 30 ngàn quân. Ðó là chưa nói đến phi vụ cứu thương, yểm trợ hoả lực, hộ tống và thám thính. Tài liệu cho biết số quân cao nhất VNCHcó ở Hạ Lào là 19 tiểu đoàn tác chiến và 12 tiểu đoàn pháo binh (có tài liệu nói 18 tiểu đoàn tác chiến và 10 tiểu đoàn pháo binh trong cao điểm cuả chiến trường). <br />[35]Headquarters Pacific Air Force, Project CHECO, Lam Son 719, trang 102. Ðiện tín đánh lên cho máy bay tiền sát vào đêm 4 tháng 3, nhờ chuyển về BTL sư đoàn Dù ở Khe Sanh. Tiểu đoàn 2 Nhảy dù di tản khỏi căn cứ bằng đường bộ chiều hôm sau. Cảnh thiếu nước được tác giả Tử Thử Căn Cứ Hoà Lực 30 Hạ Lào nhắc lại nhiều lần trong sách. <br />[36]Lewis Sorley, The Abrams Tapes, trang 545-46; A Better War, trang 251-53. <br />[37]LoLo là bãi đổ quân xa nhất từ biên giới cho đến ngày 3 tháng 3. Ðây là bãi đổ quân để chuẩn bị nhảy vào Tchepone. Sau LoLo là các bãi đáp Liz, Sophia, và cuối cùng là Hope, ngày 6 tháng 3. Không quân dọn bãi đáp Liz ngày 4 tháng 3 rất “rẻ, đẹp, bền.”: một trái BLU-82 (15.000 cân); 14 phi vụ B-52; 10 phi vụ dội bom chiến thuật; 13 phi vụ bom CBU nổ chậm chống người. Sau đó trong khi chờ trực thăng đến bãi đáp, cứ 10 phút có một phi vụ dội bom chiến thuật cho đến khi đoàn trực thăng xuất hiện. Trong 62 trực thăng đổ quân, hai chiếc bị bắn hủy diệt và 18 bị trúng đạn. Ở bãi đáp Hope: 25 phi vụ B-52; hai trái BLU-82; 50 phi vụ chiến thuật cho các loại bom CBUs; và trong lúc trực thăng lên xuống đổ quân, thên 29 phi vụ bom chiến thuật nữa. Kết quả, không một trực thăng nào bị thiệt hại ở Hope. Ðọc Project CHECO, Lam Son 719, trang 93-101. <br />[38]Chuyện tướng Khang và tướng Lãm, The Abrams Tapes, trang 566-67; Tướng Lãm than phiền tướng Ðống, điện văn Top Secret MAC 02455 Eyes Only, đại tướng Abrams gởi trung tướng Sutherland, 9 March, 1971; điện văn Top Secret, QTR 0306, Eyes Only, Sutherland gởi Abrams, 10 March 1971. <br />[39]Sĩ quan cố vấn cho Sư đoàn Nhảy dù, và Sư đoàn TQLC là hai thí dụ điển hình. Cố vấn TQLC Hoa Kỳ đã tận tình cứu nguy cho Tiểu đoàn 4 TQLC ở đồi Delta đêm 25 tháng 3, khi đồi bị tràn ngập (người cố vấn xin trực thăng CH-53 của Hải quân Hoa Kỳ thẳng từ Hạm đội 7, thay gì qua đơn vị cơ hữu không vận của QÐ XXIV). Trong khi cố vấn Nhảy dù thì không nắm vững tình hình của các đơn vị Nhảy dù mà ông đang cố vấn. Sau khi Ðồi 31 thất thủ, tướng Arams bất thần giải nhiệm đại tá cố vấn Sư Nhảy dù William Arthur Pence, và thay bằng đại tá James Vaught. Vaught sau này về hưu với cấp bậc trung tướng và vẫn tình bạn với lính dù VNCH cho đến ngày hôm nay. <br />[40]Project CHECO, trang 19. Trong số lượng súng đó, có 170-200 súng loại từ 23 ly đến 100 ly. Số còn lại có khẩu độ nhỏ, 12.7l y đến 20 ly, nhưng gây nhiều thiệt hại nhất. <br />[41]Sorley, A Better War, trang 250. Ðại úy Trương Duy Hy cũng ghi lại điều này trong sách của ông.<br />[42]Sorley, sđd, trang 246. Chuyên viên không ảnh không nhận ra được những chi tiết đó, vì sau một thời gian, cỏ mọc phủ lên, chụp không ảnh không thể phân biệt được. <br />[43]Tiếp liệu trên đoạn đường Ðông Hà-Khe Sanh rất phức tạp, với hơn 1.000 chuyến xe một ngày trên đoạn đường một xe đi (one-lane road). Chuyên chở xăng bằng trực thăng tốn kém nhiều phi vụ. Một lít xăng nặng 878 grams. Quân xa loại bốn tấn (GMC) chạy 5km một lít xăng; xe tăng M-41, 2.5 lít một cây số; M-113, 3 cây số một lít. Xe “tanker” chở xăng mà chúng ta thấy chạy trên xa lộ, có trọng tải tối đa 6.000 gallons (24 ngàn lít), nhưng thông thường chỉ chở 5.000 gallons (20 ngàn lít). Di chuyển 5.000 gallons xăng cần 17 phi vụ trực thăng UH-1, hay năm phi vụ của CH-47. </strong>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-58557919419177936282008-05-15T14:43:00.000-07:002008-12-11T03:12:35.452-08:00Ngay Quan Luc 19 Thang 6<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjPfeRcL71NQCL579wKT9zP2NiUoiacHnhECWx4OtJ6aogy_Y0uDhStJ8ycAVT148JOw9qazIHd0IuQ1UpnVm9jCBA8jg0sPJf8TsM9ulCB-jat2jOit7mSTAYegX49NA6KKnfSV3ittS8/s1600-h/anloc_pic2.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjPfeRcL71NQCL579wKT9zP2NiUoiacHnhECWx4OtJ6aogy_Y0uDhStJ8ycAVT148JOw9qazIHd0IuQ1UpnVm9jCBA8jg0sPJf8TsM9ulCB-jat2jOit7mSTAYegX49NA6KKnfSV3ittS8/s400/anloc_pic2.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213263390780370610" /></a><br /><br /><strong>Ngày Quân Lực<br />Tuesday, May 13, 2008 <br /> <br />BùiđứcLạc<br /><br /><br />LTG.- Bài này đã được tác giả viết lần đầu năm 1987, đăng trên tuần báo Chuông Việt dưới bút hiệu Chính Nhân, nay được hoàn chỉnh lại, với hy vọng không làm phiền lòng người đọc.<br /><br /><br />Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được chính thức khai sinh vào những ngày tháng cuối năm 1954, sau ngày 20-7-1954 tức là ngày Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa Pháp và Cộng Sản Việt Nam. Cho mãi tới ngày 1-12-1954, các cấp chỉ huy Việt Nam lần lượt nhận lãnh quyền chỉ huy các Quân Binh Chủng (chủ quyền) từ tay người Pháp; Thiếu Tướng Nguyễn văn Vỹ được bổ nhiệm làm Tổng Thanh Tra Quân Ðội, thay thế Thiếu Tướng Alessandri; Thiếu Tướng Lê Văn Tỵ được bổ nhiệm làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh; Nhưng mãi tới ngày 29 tháng 12 năm 1954 mới có hiệp ước chính thức chấm dứt chế độ Quốc Gia Liên Kết “Quadripartisme” (chế độ này được khai sinh từ ngày quân Pháp theo chân Ðồng Minh chiếm lại Ðông Dương sau Ðệ Nhị Thế Chiến) và cũng hủy bỏ hiệp định “Pau” năm 1950. Kể từ lúc đó các cơ sở hành chánh, cảnh sát, công an và các cơ quan tư pháp cũng được trao trả lại chủ quyền cho người Việt Nam.<br /><br />Cũng từ ngày 29-12-1954 Bộ Tham Mưu hỗn hợp Việt Pháp được cải tổ và cải danh thành Bộ Tổng Tham Mưu Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, vào đầu năm 1956 các Bộ Tư Lệnh Quân khu được cải danh thành Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn; vào đầu năm 1958 các đơn vị Sư Ðoàn Khinh Chiến, Dã Chiến cũng dần dà được canh tân thành các Sư Ðoàn Bộ Binh; vào cuối năm 1965 các Lữ Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến, Liên Ðoàn Nhảy Dù cũng theo đà canh tân Quân Ðội, được bành trướng thành các Sư Ðoàn Tổng Trừ Bị; các Ðại Ðội Biệt Ðộng Quân được thành lập thành Tiểu Ðoàn, Liên Ðoàn, rồi Sư Ðoàn; các đơn vị Thiết Giáp cấp Chi Ðội, Chi Ðoàn được canh tân, hiện đại hóa bằng những thiết giáp tân tiến và tăng trưởng thành các Thiết Ðoàn; các Chiến Hạm Hải Quân cũ kỹ do quân đội Pháp để lại được thay thế bằng những chiến hạm tân tiến hơn, đồng thời ào ạt nhận thêm chiến hạm mới các phòng Hải Quân bên cạnh Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn được thành lập thành các Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng; các đơn vị Không Quân từ những khu trục cơ cánh quạt được thay thế bằng những Phản Lực cơ siêu âm rồi các Phi Ðoàn, Sư Ðoàn Không Quân ra đời; các binh chủng, nha sở cũng được trang bị hiện đại hơn và tăng cường quân số cho phù hợp với nhu cầu của chiến trường và nhu cầu chỉ huy, liên lạc, tiếp vận. Chính vì vậy mà một vị Tướng lãnh tên tuổi ngoại Quốc (chúng ta thường có tinh thần vọng ngoại) đã phải tuyên bố xác nhận rằng : Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là một quân lực tinh nhuệ và hùng hậu đứng vào hàng thứ năm trên thế giới.<br /><br />Cũng từ năm đó, năm 1960 là năm mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu chao đảo theo tham vọng của một số các cấp chỉ huy, Quân Lực đã bị lợi dụng bởi tham vọng cá nhân, có khi còn bị lèo lái theo tướng số, bói toán và tử vi nữa.<br /><br />Năm 1963 cơn bão loạn chính trị, được khơi dậy bằng những cuộc xuống đường, của học sinh, sinh viên, Phật Tử và còn một điều quyết định là theo dấu chỉ của đèn xanh Quốc Tế. Trung Tướng Dương Văn Minh, số đông các tướng lãnh và một số sĩ quan trung cấp đang nắm quyền chỉ huy các đơn vị chung quanh Thủ Ðô Sài Gòn đã lật đổ chính phủ dân cử ngày 1-11-1963; Kết quả là hai anh em Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã bị thảm sát trên thiết vận xa M113 ngay trong lòng Thủ Ðô Sài Gòn-Chợ Lớn.<br /><br />Ngày 18 tháng 11 năm 1963 Ðại Tá Nguyễn Chánh Thi và Trung Tá Vương Văn Ðông sau ba năm bôn ba nước ngoài vì đảo chánh không thành trở về nước.<br /><br />Ngày 23 tháng 11 năm 1963 Tổng Thống Hoa Kỳ Kennedy bị ám sát tại Dallas tiểu bang Texas, Phó Tổng Thống L. Johnson lên thay.<br /><br />Hơn một tháng say mê trên chiến thắng (Cách Mạng) một Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng được thành lập do Trung Tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch, các ủy viên gồm các Trung Tướng Trần Văn Ðôn, Tôn Thất Ðính, Trần Thiện Khiêm, Phạm Xuân Chiểu, Lê Văn Kim, Lê Văn Nghiêm, Mai Hữu Xuân, Trần Văn Minh; các Thiếu Tướng Ðỗ Mậu, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có; Ðồng thời Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng cũng chỉ định Ðốc Phủ Sứ Nguyễn Ngọc Thơ thành lập chính phủ; (Phó Tổng Thống của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, người đã đánh lừa Ba Cụt, hứa nếu về đầu hàng chính phủ, sẽ được khoan hồng nhưng khi Ba Cụt về đầu hàng, lại cho một toán quân phục kích bắt sống Ba Cụt rồi đem xử tử). Nhưng thay vì mở rộng cho các đảng phái tham gia chính quyền, thì chính phủ của Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ lại là một chính phủ bè phái, chia rẽ, rõ rệt, nhất là sự hiện diện của nhóm sĩ quan Ðại Việt, như Ðại Tá Ðỗ Kiến Nhiễu đổng lý văn phòng Quốc Trưởng Dương Văn Minh, Ðại Tá Nhan Minh Trang chánh võ Phòng Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ, Ðại Tá Nguyễn Văn Quang giám đốc nha An Ninh Quân Ðội, Ðại Tá Dương Hiếu Nghĩa chỉ huy trưởng Thiết Giáp Binh, Ðại Tá Huỳnh Văn Tồn tỉnh trưởng Gia Ðịnh, nhóm này chủ trương lật đổ chính phủ của Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ và mời lãnh tụ Ðại Việt là Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, đang sống lưu vong bên Pháp về lập chính phủ.<br /><br />Nhưng âm mưu của nhóm này chưa kịp thi hành, thì bị Trung Tướng Trần Thiện Khiêm tư lệnh Quân Ðoàn III phối hợp cùng Trung Tướng Nguyễn Khánh tư lệnh Quân Ðoàn I, Ðại Tá Nguyễn Chánh Thi tư lệnh phó Quân Ðoàn I, dùng ưu thế trong Quân Ðội dập tắt, trong phiên họp ngày 12-12-1963 tại Sài Gòn, quyết định ngày 31-1-1964 giải tán chính phủ, của Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ, quan trọng hơn nữa là trong phiên họp này, quyết định bắt giam tất cả các Tướng Lãnh chủ mưu cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, vì lý do nhóm này chủ trương Trung Lập, (cho đến ngày hôm nay cũng chưa có bằng cớ xác thực), ỡm ờ vẫn giữ Trung Tướng Dương Văn Minh, người cầm đầu cuộc đảo chánh ở lại làm Tổng Thống, Trung Tướng Nguyễn Khánh làm Thủ Tướng, thành lập hội đồng Nhân Sĩ gồm 60 vị, Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng đổi tên thành, Hội Ðồng Quân Ðội Cách Mạng, Trung Tướng Nguyễn Khánh làm chủ tịch thay thế Trung Tướng Dương văn Minh, rồi đến Tam Ðầu Chế (bù nhìn). Tướng Nguyễn Khánh thao túng sân khấu chính trị, làm cho Quân Ðội hoang mang, Dân Chúng hoài nghi, và nhìn tất cả các tuồng diễn trên sân khấu cải lương chính trị, tại Sài Gòn lúc bấy giờ, như một màn bi kịch của thời đại.<br /><br />Tướng Khánh làm nhiều trò rất ngoạn mục, như hiến chương Vũng Tầu, Tam Ðầu Chế (Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Phan Khắc Sửu) phong cho ông Trần Văn Hương làm thủ tướng và một Thượng Hội Ðồng Quốc Gia làm cố vấn (bù nhìn) cho chính phủ, vì Thượng Hội Ðồng Quốc Gia không chịu làm bù nhìn, cho nên Tướng Nguyễn Khánh bắt giam các giới chức trong Thượng Hội Ðồng này gồm cả nhà cách mạng Nguyễn Văn Lực (thân phụ của phi công Nguyễn Văn Cử), rồi đầy các nhân sĩ trong Thượng Hội Ðồng Quốc Gia lên cao nguyên Trung Phần.<br /><br />Ngày 7 tháng 6 năm 1964 công giáo biểu tình chống chính phủ rất qui mô tại công trường Lam Sơn.<br /><br />Ngày 2 tháng 8 năm 1964 chiến hạm Maddox của Hoa Kỳ tuần tiễu ở vịnh Bắc Việt bị tầu tuần tiễu Bắc Viết phóng ngư lôi tấn công, ba ngày sau tầu Mỹ lại bị tấn công, Phi cơ Mỹ trả đũa oanh tạc các tầu chiến và các vị trí quân sư tại ven biển Bắc Việt.<br /><br />Ngày 26 tháng 8 năm 1964 ẩu đả giữa hai nhóm nhỏ Phật Giáo và Thiên Chúa giáo tại khu Thanh Bồ Ðà Nẵng làm 11 người chết, 42 người bị thương, một số nhà bị đốt. Tại Sài Gòn cũng bùng lên tình trạng Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo kình chống nhau, Linh Mục Hồ Văn Vui và Thượng Tọa Thích Tuệ Ðăng phải ra tận nơi biểu tình của hai bên đang đối đầu nhau để hòa giải mới ổn định được tình hình, có tin cho rằng các cuộc chống chọi giữa Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo là do Cộng Sản giật dây, cả hai bên chỉ vì thiếu suy xét, chút xíu trở thành đại họa cho đất nước lúc bấy giờ, bài học này ngày nay vẫn còn nóng hổi.<br /><br />Ngày 8 tháng 9 năm 1964 Tướng Nguyễn Khánh lại chỉ định Thượng Hội Ðồng Quốc Gia mới, với nhiệm vụ triệu tập Quốc Dân Ðại Hội, soạn thảo Hiến Chương, nhưng sau đó lại bị giải tán.<br /><br />Ngày 13 tháng 9 năm 1964 Ðảng Ðại Việt đảo chánh, do Ðại Tá Huỳnh Văn Tồn Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh và Trung Tướng Dương Văn Ðức Tư Lệnh Quân Ðoàn IV (bên ngoài ai cũng tưởng đây là cuộc đảo chánh do Tướng Ðức chủ mưu, nhưng không phải như vậy, mà sự thật chủ mưu cuộc Ðảo chánh này là do nhóm Sĩ Quan Ðại Việt; Tướng Dương Văn Ðức thuần túy là một quân nhân, ông cương trực thắng thắn nên dễ bị lợi dụng). Tướng Nguyễn Văn Thiệu lúc đó đang làm Tham Mưu Trưởng liên quân, tại Bộ Tổng Tham Mưu không có quân trong tay nên phải cầu cứu với Thiếu Tướng Nguyễn Chánh Thi tư lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh về Sài Gòn để phản công; Tướng Thi nhờ vào uy tín và sự quen biết với các vị Tư Lệnh hai Binh Chủng Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến cũng như Quân Chủng Không Quân; nên ông đã chỉ huy phản công, dẹp Ðảo chánh thành công rất dễ dàng.<br /><br />Ngày 1 tháng 11 năm 1964 ông Trần văn Hương được đề cử làm Thủ Tướng chánh phủ, nhưng không được bao lâu bị chống đối mạnh mẽ từ khối sinh viên Phật Tử.<br /><br />Ngày 16 tháng 2 năm 1965 sau hơn ba tháng cầm quyền Thủ Tướng Trần Văn Hương từ chức, rối loạn lại càng rối loạn hơn.<br /><br />Ngày 19 tháng 2 năm 1965 Thiếu Tướng Lâm Văn Phát và Ðại Tá Phạm Ngọc Thảo lại làm thêm màn bi kịch đảo chánh trên sân khấu Sài Gòn, nhưng cũng lại bị Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi Tư Lệnh Quân Ðoàn I phối hợp cùng Thiếu Tướng Nguyễn cao Kỳ Tư Lệnh Không Quân dẹp tan, nhân dịp này Tướng Nguyễn Chánh Thi với danh nghĩa là Tư Lệnh Quân Ðoàn Giải Phóng Thủ Ðô, đã yêu cầu Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu giải nhiệm Tướng Nguyễn Khánh, chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, được giao cho Trung Tướng Trần Văn Minh và ép buộc tướng Nguyễn Khánh phải xuất ngoại trị bệnh. (căn bệnh này là căn bệnh truyền nhiễm)<br /><br />Ngày 25 tháng 2 năm 1965 Tướng Nguyễn Khánh lên đường lưu vong sau hơn một năm khuấy động,trước khi bước chân lên máy bay ông cầm một nắm đất và tuyên bố: “Tôi đem theo đất nước Việt Nam với tôi và tôi còn trẻ tôi sẽ trở lại đất nước khi có cơ hội” .<br /><br />Cũng ngày 25 tháng 2 năm 1965 Thủ Tướng Phan Huy Quát thành lập chánh phủ, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu phó Thủ Tướng nhưng lại bị khối Công Giáo biểu tình chống đối, nên chánh phủ Phan Huy Quát phải giải tán sau gần bốn tháng cầm quyền đầy rối loạn, đồng thời Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu cũng nhận thấy ngôi vị của mình không có thực quyền nên đã cùng Thủ Tướng Quát thỏa thuận là nên trao quyền hành điều khiển Quốc Gia lại cho Quân Ðội, sự thực các chính phủ dân sự không còn lối thoát, họ không do dân bầu mà do sự chỉ định, khi lên hay xuống cũng do chỉ định mà thôi, cho nên họ hoàn toàn bất lực, không có một chút uy quyền nào.<br /><br />Ngày 8 tháng 3 năm 1965 hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên Ðà Nẵng, đây là đơn vị đầu tiên của quân đội Hoa Kỳ chính thức tham chiến tại Việt Nam.<br /><br />Tới đầu tháng 6 năm 1965 mọi việc đều rõ ràng, trong tình thế rối loạn này, nếu Quân Ðội không nhận lãnh tạm thời điều khiển quốc gia, để tổ chức bầu cử chọn người lãnh đạo quốc gia, thì không một cá nhân hay đảng phái nào có thể đảm nhận vai trò điều khiển Quốc Gia trong giai đoạn nhiễu nhương này được.<br /><br />Cho nên ngày 6 tháng 6 năm 1965 Hội Ðồng Quân Lực đã nhóm họp khẩn cấp, cuộc họp này hoàn toàn do các Tướng lãnh Việt Nam chủ động, và kết quả là vẫn không bầu được một cơ cấu, sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm điều khiển Quốc Gia.<br /><br />Ngày 11 tháng 6 năm 1965 cuộc họp giữa chính phủ dân sự chỉ định và Hội Ðồng Quân Lực từ 9:00 giờ tối cho đến 3:00 giờ sáng ngày 12 tháng 6; Trong buổi họp này Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát đồng loạt từ chức, giao quyền hành cho Hội Ðồng Quân Lực, mọi người đồng ý chờ quân đội chọn người, sau đó mới chọn ngày bàn giao chính thức, cuộc họp lịch sử này do sự thúc đẩy của Hoa Kỳ nhưng hoàn toàn không chịu áp lực của Hoa Kỳ, chương trình nghị sự hoàn toàn độc lập.<br /><br />Ngày 12 tháng 6 năm 1965 các vị Tướng Lãnh và những vị có chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn trở lên họp từ 9:00 giờ sáng cho đến 9:00 giờ tối tại Bộ Tư Lệnh Binh Chủng Thủy Quân Lục Chiến, dưới sự canh gác vô cùng cẩn mật; Cuộc họp bàn cãi rất sôi nổi về việc chọn một người ra điều khiển Quốc Gia với danh xưng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, không ai tình nguyện, nên các vị sau đây lần lượt được đề cử :<br /><br />Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu<br /><br />Trung Tướng Nguyễn Hữu Có<br /><br />Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi<br /><br />Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ<br /><br />Lúc đầu Trung Tướng Thiệu và Trung Tướng Có từ chối quyết liệt , sau đó Trung Tướng Thi cũng từ chối cuối cùng Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ nhận lãnh, sau cùng đi tới kết quả thành phần lãnh đạo như sau:<br /><br />Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu Tham Mưu Trưởng Liên Quân làm Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia (Quốc Trưởng)<br /><br />Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ Tư lệnh Không Quân làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Thủ Tướng)<br /><br />Ðồng thời các Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng được lần lượt thay thế bằng các quân nhân (không có kinh nghiệm về hành chánh và cai quản) và lấy tên là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Tỉnh hay Quận.<br /><br />Nhưng để có thời gian chuẩn bị thành lập nội các, cho nên đến ngày 19 tháng 6 năm 1965, Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương mới chính thức tuyên bố nhận lãnh trách nhiệm lèo lái Quốc Gia và tuyên bố thành phần nội các; cùng quyết định tăng phụ cấp cho binh sĩ; cũng như chọn ngày 19 thang 6 là ngày Quân Lực (Hiện nay tại hải ngoại các cựu Quân Nhân chúng ta phải giữ ngày này là giềng mối để nắm tay nhau, công kích ngày Quân Lực là mục đích tiếp tay cho kẻ thù chung của Dân Tộc, gây chia rẽ trong hàng ngũ Quân Nhân; Cũng như công kích bản Quốc Ca của chúng ta là mục đích gây chia rẽ trong hàng ngũ Quốc Gia, gây xáo trộn trong cuộc sống đầy ưu phiền nghi kỵ, cả hai tình huống quan trọng này, một bên chống một bên thuận là cả Cộng Ðồng Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản phải tan nát khó hàn gắn, bây giờ không phải là lúc bàn đến việc thay đổi điên rồ này, nếu chúng ta suy nghĩ chín chắn thì chúng ta phải đón nhận như trong gia phả vậy, hay giở cũng là của tiền nhân để lại, phải chấp nhận để làm bài học quý giá sau này, tốt hay xấu thì cũng là tấm gương soi để noi theo hay sửa chữa, con cháu chúng ta cần học hỏi trong cả bài học hay cũng như bài học dở, từ cổ chí kim không có một quốc gia nào, hay một vị nguyên thủ nào hoàn hảo cả) .<br /><br />Năm 1965 cũng chính là năm mà Cộng Sản Việt Nam nhận định rằng: Sau gần hai năm lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm các tướng lãnh đã lo tranh giành quyền lực không chú ý gì đến quyền lợi của Quốc Gia Dân Tộc, không còn chú ý đến nhiệm vụ chính là Hành Quân bảo vệ dân, tiễu trừ Cộng Sản nữa. Nắm cơ hội này chúng đã gửi các Sư Ðoàn Chính Quy ào ạt Nam Tiến với mục đích là thôn tính trọn miền Nam; Nhìn rõ ý đồ đó nên Tổng Thống Hoa Kỳ L. Johnson đã quyết định đổ bộ các đại đơn vị Hoa Kỳ vào tham chiến kịp thời, nếu không QLVNCH với vũ khí lúc đó còn thô sơ (Garant, carbine và đại liên 30 ) khó có thể ngăn cản sự tấn công của đạo quân được trang bị tối tân hơn (AK 47, B40, B41 và hỏa tiễn điều khiển địa địa cũng như địa không). Tuy vậy QLVNCH cũng phản tỉnh sau hai năm mơ màng nên lệnh tổng động viên được ban hành, Thiếu Tướng Bùi Ðình Ðạm cấp thời được bổ nhiệm làm Giám Ðốc Nha Ðộng Viên Bộ Quốc Phòng, để thi hành lệnh Tổng Ðộng Viên, trước tình thế khẩn trương của đất nước, các Quân Binh Chủng cũng được bành trướng chẳng hạn như Lữ Ðoàn Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến, cấp tốc được thành lập thành Sư Ðoàn.<br /><br />Năm 1966 là năm đầu tiên lấy ngày 19-6 là ngày QUÂN LỰC; Một cuộc diễn binh rất quy mô trên đường Trần Hưng Ðạo Thành Phố Sài Gòn Chợ Lớn, dưới đất các đoàn quân anh hùng lần lượt đi qua khán đài, trên trời các phi cơ đủ loại biểu diễn ngoạn mục mang lại niềm tin ở sức mạnh của Quân Ðội cho dân chúng, nhất là sau một năm tình hình chính trị và quân sự được ổn định dân chúng lại càng an lòng hơn.<br /><br />Kể từ đó QLVNCH đã hoạt động tích cực bảo vệ thôn ấp, hành quân truy diệt địch đến tận sào huyệt của chúng, những vùng được coi là Mật Khu An Toàn của Cộng Sản, đều bị chúng ta giẫm nát, những trận đánh để đời như Pleime, Ðức Cơ, đồi 1416 tại kontum v.v... tới nay đã đi vào quân sử hào hùng của chúng ta, không những vậy QLVNCH còn vượt biên sang Campuchia, Lào để san bằng các cơ sở chỉ huy đầu não và hậu cần tiếp vận của chúng, chúng ta đã bẻ gẫy cuộc chiến lừa lọc tết Mậu Thân, tổng tấn công Mùa Hè 1972. Nhưng sau cùng chúng ta phải gẫy súng, chúng ta bị trói tay vì súng đạn, nhiên liệu bị cắt giảm 90%, không còn được tiếp tế, bổ sung, không có các cơ phận tốt để thay thế những cơ phận hư hỏng; cuộc chiến đương nhiên phải kết thúc. Hai võ sĩ lâm trận, một võ sĩ được tự do hoạt động, còn một bên bị trói tay, chúng ta thấy ngay bên nào phải thua! <br /><br />Ngày 19-6-1975 không một nơi nào trên trái đất này tổ chức ngày Quân Lực cho QLVNCH, nhưng chắc chắn nó được âm thầm tưởng nhớ trong trí trong tâm của các quân nhân còn đang bàng hoàng trước cơn đại nạn của đất nước; để rồi người may mắn phiêu bạt khắp Năm Châu, người kém may mắn đang trong các lao tù Cộng Sản, người kiên cường bất Khuất đang hiên ngang chiến đấu trong lòng đất mẹ Việt Nam. Nhưng dù ở phương trời nào, hoàn cảnh nào, các quân nhân QLVNCH lúc nào cũng một lòng son sắt quyết tâm sẽ tổ chức ngày Quân Lực rạng rỡ trên quê hương Việt Nam Mến Yêu.<br /><br />Trên một phần tư thế kỷ, biết bao nhiêu đau thương chồng chất, biết bao nhiêu khổ ải cực hình, biết bao nhiêu tan vỡ tận cùng, mang theo những chia lìa ngăn cách để lại cho chúng ta những khắc khoải mong chờ, ngày quang phục quê hương, mục tiêu hợp quần những người cựu Quân Nhân QLVNCH chưa nắm trọn trong tay, vì chúng ta còn lấn cấn trong những thủ đoạn ma mãnh, của nhiều nhóm, mưu cầu lợi ích riêng tư cho một đơn vị hay cho một đoàn thể, mà chưa nhận điện được những lợi ích chung cho cộng đồng cho xứ sở!!! kèm theo chúng ta đang bị quân thù cài người đánh phá, vì vậy khối Quân Nhân phải cực kỳ sáng suốt, mới nhận rõ được quân thù, nếu chúng ta không nắm tay cùng nhau, chúng ta sẽ bị lịch sử lên án nặng nề, về những việc làm hiện tại của chúng ta, chúng ta thật sự thua trận giặc vừa qua, để lại một dân tộc vốn kiêu hùng, nhưng trớ trêu thay đang làm nô lệ cho chính những người cùng huyết tộc, hơn thế nữa tiếp tục tới ngày hôm nay, chúng ta đang thua trận giặc tàn khốc hơn đó là trận giặc làm tay sai, trận giặc chia rẽ do quân thù điều khiển, và bị xúi bẩy bởi những người không một ngày cầm súng; hoặc còn tệ hại hơn nữa, một số không nhỏ những người trong hàng ngũ cựu quân nhân, đang làm tay sai cho giặc, đang ra sức đánh phá mọi mặt, bôi nhọ những người có tâm huyết, chính họ là những người đã chỉ điểm cho quân thù tiêu diệt chúng ta, để chúng ta phải mang tiếng chung là đang làm nhơ bộ chinh y của chính chúng ta, đau đớn thay!<br /><br />Xin Hồn Thiêng Sông Núi xin tinh anh của Dòng Giống Tiên Rồng dẫn dắt con cháu Lạc Hồng biết tương nhượng nhau, xích lại gần nhau và biết cùng nhau nhìn về quê hương bên kia bờ đại dương, cùng đau trong niềm đau chung của Dân Tộc.<br /><br />Bùi đúc lạc<br /> </strong>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-8381595337007596742008-04-03T12:00:00.000-07:002008-12-11T03:12:35.949-08:00QLVNCH Buong Sung nhung Khong Dau Hang 30-4-1975<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiUhDGxTFeHVkBBv5DqCrLn7OmxfYNwElyi4L3prJFNUnAULwAVXbggZlOnCmB6_7Oegun9qub_xfyI9-fGnQ8ZLGB8xAoO0f7_cQTBN8wliPxDyzWT-OISTtbpWJcl1WOJKU9RK-kCQZ4/s1600-h/anloc12.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiUhDGxTFeHVkBBv5DqCrLn7OmxfYNwElyi4L3prJFNUnAULwAVXbggZlOnCmB6_7Oegun9qub_xfyI9-fGnQ8ZLGB8xAoO0f7_cQTBN8wliPxDyzWT-OISTtbpWJcl1WOJKU9RK-kCQZ4/s400/anloc12.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213264415612495522" /></a><br /><br /><strong> NGÀY 30-4-1975,<br /> QLVNCH BUÔNG SÚNG NHƯNG KHÔNG ÐẦU HÀNG<br /> –––––––––––––––––––––––––––––––––––<br /> MƯỜNG GIANG (KBC 4508)<br /> <br /><br /> Từ chiều 29 cho tới trưa ngày 30-4-1975, súng đủ loại lớn nhỏ đã bắt đầu nổ vang khắp Sài Gòn. Kinh khiếp hơn hết là các loại bích kích pháo B40-41, hỏa tiễn 122 ly, cứ bì bỏm liên tục, rót xuống phi trường Tân Sơn Nhất và các vùng đông dân lân cận.<br /><br /> Rốt cục chỉ có mặt nhựa ở phi đạo bị đan làm xoáy tung mà thôi. Nơi nơi bôn hướng, cây cối, dây điện, gạch vôi và thân xác của những người lính quèn lúc đó, vẫn còn ở lại để phòng thủ cái phi trường trống không, chập choạng, ngả nghiêng thảm thê theo làn đạn địch. Ánh lửa hồng từ các đám cháy, quyện với mùi khói khét và sơn vôi gạch vụn, theo gió bốc mùi vào các ô cửa kính bị vỡ vì mãnh đạn bay lạc. Trong Viện Quốc Gia Nghĩa Tử, nằm cạnh khu nghĩa trang Thánh Tây và phi trường, trên đường Võ Tánh, là nơi tạm trú của mấy trăm gia đình di tản thuộc các Ty Cựu Chiến Binh từ Miền Trung chạy vào. Mọi người ai cũng đang co rúm giữa bốn bức tường mỏng manh loang lổ đan, nằm ngồi trên nền xi măng hay các bàn ghế học trò lạnh lẽo, đói khát. Lũ con nít thiếu nước, thiếu sữa nên la khóc inh ỏi.<br /><br /> Lúc đó trên đường Võ Tánh từ cổng chính của Bộ Tổng Tham Mưu gần ngã ba Trương Tấn Bửu chạy tới ngã tư Bảy Hiền, xa nhìn ngút mắt, có các đám cháy lớn và nhiều quân xa chở lính cũng như thiết giáp đang dồn dập di chuyển. Khói lửa, điêu linh và chết chóc, đã được chính người miền Nam , qua cái rổ tự do dân chủ, hòa hợp dân tộc, để rước cọng sản đệ tam quốc tế Hà Nội, mang từ Liên Xô và Trung Cộng, vào tận đất Sài Gòn thơ mộng hiền hòa, vô ưu, vô tâm và vô trách nhiệm.<br /> <br /> Trong nổi câm nín của những ngày Việt Nam sắp mất nước, đất trời như cũng cảm thông chia sớt với thân phận của một dân tộc nhược tiểu, bị chính đồng bào mình, qua nhân danh lãnh tụ, đem bán đứng cho các thế lực ngoại nhân, trong đó có đế quốc Tàu đỏ, là kẻ thù ngàn đời mãn kiếp của dân tộc Việt. Bởi vậy bốn bề chỉ thấy cảnh tượng mông mênh sầu thảm, qua cơn mưa hè đầu mùa sụt sùi lệ mắt. Trong góc phòng, có chiếc máy thu thanh của ai đó mở suốt từ đêm qua, nhưng âm thanh tuyệt nhiên vắng ngắt , lâu lâu phát ra những tiếng gió sè sè lãng xẹt.<br /><br /> Giữa giờ thứ 25 chết chóc đang chực chờ, bổng thấy thèm những giọng ca thương lính thuở nào, của những nam nữ ca sĩ phong lưu dỏm dáng, trắng trẻo no tròn, với bộ đồ trận rằn ri, luôn còn nguyên nếp gắp và mùi thơm vải. Tình nhất là trên túi aó có lúc lắc chùm huy chương đủ loại, cũng như các phù hiệu của những binh chủng dữ dằn như Nhảy Dù, TQLC, BÐQ, Lôi Hổ.. Cũng thấy nhớ tới những bài diễn văn bốc lửa, đượm tình mến nước yêu dân của các đấng nguyên thủ, chính khách, lãnh tụ, cha-thầy, kể cả các trí thức khoa bảng của Sài Gòn. Rồi những cuộc biểu tình chống chính phủ, chống tham nhũng, chống đàn áp tôn giáo, báo chí đến nỗi hàng trăm ký giả bị khủng bố bốc lột gần trần truồng chịu đói lạnh không nổi, đành phải đi ăn mày để có được tự do ngôn luận như các đồng nghiệp đang sống ở Hà Nội, trong thiên đàng xã hôi chủ nghĩa, cái gì cũng có như ‘ nước đá ‘ xài không hết phải phơi khô để dành..<br /><br /> Nhưng giờ này họ ở đâu ?, vì hôm qua còn thấy chường mặt đủ trên đài truyền hình hay báo chí, hùng hổ phun bọt mép, khua cả tay chân quả đấm đòi này nọ, để có thực quyền đối mặt với mấy trăm ngàn bộ đội miền Bắc, đang lăm lăm súng đạn, mả tấu, để phanh thây xé xác đồng bào. Họ nói có quyền mới có hòa hợp hoà giải,mang lại hòa bình cho đất nước và trên hết người Việt không cần phải bỏ nước ra đi, để phải chết vì thèm mấm tôm cà pháo nơi xứ người.<br /><br /> Tất cả gần như chạy hết rồi, bỏ lại đồng bào thân yêu , lính tráng đồng đội đang còn tử chiến với giặc khắp chiến trường, các thương bệnh binh đang rên la trong quân y viện và mảnh đất Sài Gòn ba trăm năm, trong cơn hấp hối :<br /><br />+ Sài Gòn, những phút giờ hấp hối :<br /><br /> Hai mươi năm chinh chiến, bao giờ cũng vậy, tới lúc cuối cùng chờ chết, vẫn là người lính trận và đồng bào nghèo, không có phương tiện để vượt thoát khỏi cảnh bom đạn. Lính chết thật oan khiên vì chiến đấu trong đơn độc, không có đồng minh cũng như đồng đội yểm trợ, vì vào giờ thứ 25, đâu có ai ngu như người lính VNCH, ở lại chết để không có tiền tử tuất, kể cả chiếc quan tài vùi thây đời lính. Biết nghĩ như vậy, những ai còn sống sót tơí ngày hôm nay, phải nhỏ một giọt nước mắt, dù muộn màng để cảm ơn họ. Lính chết oan khiên chẳng những ngoài chiến trường khi phải đối mặt với kẻ thù hung ác, mà còn chết lãng nhách nơi hậu phương bởi những cái lưỡi tắc kè xanh xanh đỏ đỏ, giờ này nhìn lại cũng đỏ đỏ xanh xanh, đâu có thấy đổi màu. Thảm nhất là trên đầu lính, gần hết là bọn lãnh đạo tồi, thứ này giờ đã hết răng để mà ăn, nhưng lúc nào cũng muốn chường ra giữa bia miệng, chọc cho thuộc hạ và con cháu khinh nhờn, khi cứ xưng chức, đeo huy chương và trả lời những phỏng vấn cuội, như mới đây có đám việt gian ở Canada về Sài Gòn phỏng vấn lũ tướng đầu hàng VC, trong đó có Nguyễn Hữu Hạnh và Triệu Quốc Manh, thuộc hàng tép riu, không quân, không đơn vị trước khi Dương Văn Minh được làm tổng thống hai ngày, để bắt QLVNCH buông súng rã ngủ.<br /><br /> Người lính Miền Nam bi hùng là thế đó, như vậy làm sao bảo họ phải chiến thắng khối cọng sản đệ tam quốc tế, trong đó có Liên-Xô và Trung Cộng ? Người lính đã ở lại tới giờ phút cuối cùng vào trưa ngày 30-4-1975, đã là anh hùng thử hỏi có quân đội nào anh hùng hơn, kể cả quân Pháp, Ðức, Anh trong Thế chiến 2.<br /><br /> Sau khi Hoa Kỳ cùng Bắc Việt đồng thuận ngụy tạo cuộc ngưng bắn bịp vào tháng 2-1973, chấm dứt sự hiện hữu của Mỹ tại chiến trường. Cũng từ đó, QLVNCH bị đem con bỏ chợ, chiến đấu trong thiếu thốn, thiếu cấp chỉ huy trên thượng tầng, thiếu đạn dược, thuốc men, xăng nhớt, các quân dụng khiến cho nhiều phi cơ, chiến xa phải nằm ụ vì không có cơ phận sửa chữa hay thay thế. Tóm lại mọi sự đều do người bạn đồng minh Hoa Kỳ tạo ra, như cắt quân viện, bội ước lời thề ‘ một đỗi một ‘ được chính siêu cường ký nói hứa hẹn bằng giấy trắng mực đen. Trong khi đó thì Bắc Việt, từ Hồ Chí Minh tới Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Phạm Văn Ðồng.. đã đem mãnh giang sơn gấm vóc của tiền nhân, cầm bán thế chấp cho đệ tam cọng sản, nên được cả khối như Liên Xô-Trung Cộng, Ðông Âu, Bắc Hàn, Cu Ba, các đảng cọng sản Ý, Pháp, Mỹ và những thành phân ăn cơm miền nam lại theo VC miền bắc, giúp đỡ hết lòng, từ cây kim hột gạo, cho tới bom đạn, tăng, máy bay, tiền bạc và những cái lưỡi tắc kè đỏ đỏ xanh xanh đảo lộn sự đời. Tệ nhất là lũ hề hữu danh vô thực, trong cái gọi là Liên Hiệp Quốc, lúc nào cũng bưng bợ Hà Nội, như muốn đổ dầu vào biển lửa thống hận trùng hằng tại Miền Nam.<br /><br /> Không chịu nổi cái cảnh ứa gan, hiếp người ngã ngựa, nhà bỉnh bút quân sử thế giới lương thiện và nổi tiếng là Louis A Fanning, đã phải viết lời chửi Mỹ : ‘ Sau hiệp định Paris 1973, hơn 300.000 bộ đội cọng sản quốc tế, được người Mỹ bỗng dưng tự tác cho ở lại trên lãnh thổ của nước khác. Ðó là Miền Nam VN, một quốc gia độc lập, có chủ quyền, quốc hội và không hề là thuộc địa hay các tiểu bang của Hoa Kỳ. Trong lúc đó, VNCH là một đồng minh với Mỹ từ khuya , lại bị chính Mỹ phản bội, lường gạt, cắt viện trợ và sỉ nhục mọi điều. Ðúng là thái độ của bọn con buôn chính trị, hèn chi người Mỹ đã bị thế giới tự do coi thường, vì đã bội tín với nhiều đồng minh của mình.’<br /><br /> Viết về tình trạng đồng bào VN, sống giữa cảnh chết chóc của chiến tranh mạt kiếp, đáng lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy ra nếu không có đảng cọng sản Hà Nội, khiến cho đất nước sau khi Nhật đầu hàng, thay vì sẽ có hòa bình như nhiều nước trong vùng Á Châu, lúc đó cũng đang là thuộc địa của bọn thực dân da trắng. Ðể diễn tả sự bất hạnh này, nhà báo người Tây Ðức Une Siemon Netto, đã viết trong tờ International Herald Tribune : ‘ giờ thì mọi người đã biết rõ cái thực chất cách mạng cứu nước, mà cọng sản Hà Nội luôn dùng làm chiêu bài, để có cớ gây nên một cuộc chiến vô luân, nồi da xáo thịt. Tiếc thay trước tháng 5-1975, nhiều trí thức khoa bảng và nhà báo Tây Phương, đã biết rõ cọng sản đệ tam quốc tế gây chiến tranh chỉ vì ý thức hệ và trên hết chúng rất dã man tàn bạo. Nhưng vì họ ích kỷ, hám danh và trên hết nhiều kẻ đã táng tận lương tâm, nên muối mặt, bẻ cong ngòi bút, viết láo sai sự thật, để đầu độc môi người, nhất là dân chúng Hoa Kỳ, đang có nhiều người thân tham dự cuộc chiến thần thánh, bảo vệ tự do cho nhân loại tại Ðông Dương, đang bị Ðệ tam cọng sản quốc tế tàn sát nhuộm đỏ.’. Hành động vô lương của bọn bồi bút, đã gây nên nhiều nổi oan khiên tội nghiệp, khiến bao oan hồn lương dân vô tội, đã bị bộ đội cọng sản miền bắc tàn sát dã man trong tết Mậu Thân, nhất là tại Huế. Rồi mùa hè đỏ lửa 1972 trên đại lộ kinh hoàng, từ Ðông Hà về Huế, trên quốc lộ 14 Dakto-KomTum, đường 13 An Lộc-Bến Cát và đoạn đường số 1, từ Tam Quan-Hoài Nhơn-Phù Mỹ về Qui Nhơn, qua những Lai Giang, sông Côn, sông Cả.. Nhưng bi thảm nhất cũng vẫn là những ngày cuối cùng di tản tại Vùng I, vùng II trên đường số 7, dân chúng lánh nạn gục chết như ra vì đạn kích pháo của giặc, không cần biết hay thương hại cho mạng người lá rụng, dù những mạng sống đó vốn cùng bộ đội VC, chung cháu Lạc con Hồng. Tóm lại tất cả đều vô lý, đã khiến cho nhiều nhà báo ngoại quốc sau này, phải kêu trời không ngớt, vì tự vấn lương tâm khi họ đả vô tình hay cố ý, câm nín trước những thảm trạng của nam VN. Trong lúc đó vụ Mỹ Lai (Quảng Ngãi), do chinh Hà Nội giật dây đạo diễn, đẩy dân lành vô tội ra làm bia đỡ đạn cho lính Mỹ, thì được bao chi Tây phương làm lớn chuyện, tuyên truyền không công cho Hà Nội, trong suốt cuộc chiến.<br /><br /> Sài Gòn đã bắt đầu xáo trộn từ tháng 3-1975, từ lúc miền Trung bị mất qua quyết định sai lầm rút bỏ quân đoàn I và II của TT.Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tứớng Trần Thiện Khiêm và Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu trưởng QLVNCH lúc đó. Ngày 21-4-1975, Tổng Thiệu qua áp lực của Mỹ, muốn thay ngựa theo ý của cọng sản Bắc Việt, để hòa hợp hòa giải, nên ông phải tuyên bố từ chức tổng thống trong lúc đất nước nguy ngập, ngàn cân treo chỉ mành và đã cùng Thủ tướng Khiêm, được Tòa Ðại Sứ Mỹ, đưa ra khỏi Sài Gòn, tới Ðài Bắc trong đêm tối bằng máy bay quân sự.<br /><br /> Việc bỏ nước ra đi của TT. Thiệu, khác với trường hợp của Thủ Tứơng Khiêm hay Ðại Tứớng Viên, vì hai người này chẳng hề bị đe dọa hay bắt buộc. Trái lại Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào giờ thứ 25 của VNCH trong tháng 4-1975, giống như cái chết của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm ngày 2-11-1963, được quyết định bởi bàn tay của người Mỹ. Tổng Thống Diệm không cho người Mỹ đem quân vào VN nên bị giết trong danh dự. TT Thiệu khôn ngoan từ chức ra đi, nên được sống những ngày thừa nơi quê người, chịu bia miệng nguyền rủa, vì ham sống sợ chết, dù rằng con kiến cũng muốn sống. Ðó là sự thật của lịch sử, của thân phận nhược tiều VN, mà các tài liệu Mỹ đã hé mở cho mọi người cùng đọc, trong vài năm trước đây và còn được lưu trữ phổ biến khắp mọi văn khố, kể cả VC. Ngoài ra, cũng theo sử liệu, chính Tổng Thống Trần Văn Hương, muốn người Mỹ đem Tổng Thống Thiệu ra khỏi nước tức tốc, mà theo TT Hương, đó là kỳ đà cản mũi, nên ông ta không thể trị nước hay chống Cộng được.<br /><br /> Thương nhất là Cụ Trần văn Hương lúc đó, đã gần đất xa trời, thêm mắt mũi kém, lại bị Mỹ bắt làm Tổng Thống VNCH, theo điều kiện của Bắc Việt. Nguyên thủ như vậy, nên miền Nam bị mất là cái chắc, dù sớm hay muộn cũng thế thôi. Sau đó lại màn thay ngựa cuối cùng, để Dương Văn Minh danh chánh ngôn thuận, kết thúc cuộc chiến từ đầu cũng do VC sắp đặt và cuối cùng cũng do VC quyết định, qua miệng kẻ cầm quyền của miền Nam, dù chỉ có hai ngày làm vua ngắn ngủi.<br /><br /> VNCH đang lúc lâm nguy vì thù trong giặc ngoài. Cả triệu quân, công, cán cảnh.. lúc đó đang xã thân, dùng xác người thay súng đạn Mỹ, làm công sự cản xe tăng hứng đạn pháo của cọng sản khắp mọi nẻo đường dẫn vào thủ đô, thì cũng lúc đó những sâu bọ nơi hậu trường chính trị, hăng say toắc mồm, áo thụng vái lạy ông, bày ra những trò hề tác tệ, để tự phong quan gắn chức, làm nản chí những người lính đang xả thân nơi chiến trường, bắt QLVNCH phải tan hàng rã ngũ trong tức tủi oan khiên và cuối cùng làm cho cả nước phải sống đọa đày thương đau, trong cùm gông xã nghĩa từ ấy cho tới bây giờ, qua 33 năm đoạn trường máu lệ,vẫn không hề thay đổi, vẫn không có tự do dù chút tự do để nói lời chân thật trong đáy hồn mình.<br /><br /> Nhưng dù gặp khó khăn nguy hiểm, các lộ quân còn lại của VNCH vẫn cản nổi quân xâm lăng Bắc Việt, trên khắp các tuyến đường dẫn vào Sài Gòn. Chính hành động phi thường này, nên dù VNCH không còn nửa, vẫn được thế giới ngợi khen và kính phục, như Peter Kohn đã viết trên tờ the Wall Street Journal :’Quân đội VNCH là một quân đội can đảm và chiến đấu lão luyện. Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi trên nhiều địa danh, mà người Mỹ hoặc thế giới biết hay chưa biết tới. Quân đội ấy đã hào hùng ngạo nghễ với địch , qua hàng ngàn chiến trận, tiền đồn hẻo lánh hiu hắt. Quân đội ấy không được trang bị như quân Mỹ hay bộ đội cọng sản Hà Nội. Thế nhưng từ khi Hoa Kỳ rút quân về nước hay lúc đầu quân Mỹ chưa vào VN, vẫn hiên ngang chiến đấu trong suốt 20 năm khói lửa, gần như bảo toàn trọn lãnh thổ của cha ông, từ phía bên này vỹ tuyến 17 cho tới Cà Mâu, đến khi bị Việt gian đâm sau lưng, VC bắn trước mặt, mới đành để mất non sông vào tay đệ tam cọng sản quốc tế’.<br /><br /> Cũng vì phải chiến đấu khắp các mặt trận, nên đã có hằng trăm ngàn người lính phải chết, hằng triệu thương phế binh, cô nhi quả phụ. Tới giờ phút cuối cùng, đã biết nước sắp mất, chết chỉ thêm uổng mạng nhưng họ vẫn hiên ngang chiến đấu tại Khánh Dương, Phan Rang, Phan Thiết, Xuân Lộc, Long An, Tây Ninh, Củ Chi , Biên Hòa và Sài Gòn. Tất cả đều là những chiến tích để đời và lưu danh thiên cổ trong dòng sử Việt<br /><br /> Cuối cùng trong giờ thứ 25, QLVNCH đã xử sự một cách mã thượng anh hùng. Thay vì dùng vũ lực bắt trọn Toà Ðại Sứ và Cơ Quan Dao làm con tin, như Iran đã từng làm, để gây áp lực, bắt Hoa Kỳ phải giữ lời hứa, dùng B52 đuổi bộ đội cọng sản rúr về phía bên kia vỹ tuyến 17 như Hiệp định Geneve năm 1954 và 1973 qui định. Nhưng họ vẫn không làm như vậy, vẫn tôn trọng kỷ luật quân đội, biểu lộ nét hào hùng văn hiến ngàn đời của một dân tộc có văn minh, văn hóa VN, khi cố gắng phòng thủ và tiếp tục chiến đấu khắp nơi, giúp cho Mỹ và những đồng đội, cấp chỉ huy hèn nhát, bỏ chạy khỏi nước một cách an toàn, trước khi giặc Hồ vào Sài Gòn trưa 30-4-1975. Họ đáng được ca tụng và kính phục ‘.<br /><br /> Chính hành động phi thường và thái độ mã thượng này mà sau tháng 5-1975, chính phủ và quốc hội Hoa Kỳ mới cho phép người Việt vào đất Mỹ, để phần nào trả lại chút Ân Tình cho QLVNCH. Chúng ta đừng quên điều này dù muốn hay không muốn chấp nhận sự thật .<br /><br />+ QLVNCH tử chiến trong giờ thứ 25 :<br /><br /> Sau khi được 400.000 quân Trung Cộng phòng thủ đất Bắc, cọng sản Hà Nội xua toàn bộ quân đội xâm lăng miền Nam. Mai mỉa nhất là lúc mà Dương Văn Minh cùng nội các mới, hy vọng được hòa hợp hòa giải với VC, để chúng chia chức nhín cho một chút quyền trong cái chính phủ liên hiệp, nếu có cũng chỉ là thứ bù nhìn, như MTGPMN được dựng lên, từ 12-1960 tới tháng 5-1975. Ðây chính là thời điểm , mà Bắc Bộ Phủ gọi là giờ G, ngày N, để tổng tấn công chiếm Sài Gòn. Ðó là lúc nửa đêm 29-4-1975, thời gian Hà Nội qui định cho tất cả các cánh quân, từ năm hướng tiến vào thủ đô. Ðây cũng là thời gian qui định cho bọn đặc công, biệt động nằm vùng, chui ra khỏi các hang ổ để gây hỗn loạn trong thành phố, chỉ đường, bắt tay cho bộ đội miền Bắc.<br /><br /> Tại Mặt Trận Miền Ðông Nam Phần, từ sau ngày SÐ18BB và Lữ Ðoàn 1 Dù, rút lui an toàn về Bà Rịa, Quân Ðoàn III đã tái phối trí lại các phòng tuyến mới vào những ngày cuối tháng 4-1975.<br /><br /> Vì SD18BB của Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo bị thiệt hại nặng nề sau 12 ngày ác chiến với cọng sản Bắc Việt. Ngoài Trung Ðoàn 48/18 của Trung Tá Công, tương đối quân số còn nguyên vẹn, các Trung Ðoàn 52/18 của Ðại Tá Ngô Kỳ Dũng, tại Mặt Trận Ngã Ba Dầu Giây-Túc Trưng, thiệt hại hơn 80% quân số và Trung Ðoàn 43/18 của Ðại Tá Lê Xuân Hiếu, tử thủ trong thị xã Xuân Lộc, thiệt hại trên 30% nhất là Tiểu Ðoàn 2/43/18 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, là đơn vị cuối cùng rời Long Khánh. Do đó sau khi chỉnh đốn lại đơn vi, SD18BB được giao trách nhiệm phòng thủ tuyến phía đông Sài Gòn, từ kho đan thành Tuy Hạ chạy dài tới Tổng Kho Long Bình. Riêng BCH Hành quân của SD18BB đặt tại căn cứ Hải Quân Cát Lái. Phòng tuyến của SD 18BB tiếp giáp với vị trí phòng thủ của Lực lượng Nhảy Dù, Trường Thiết Giáp và Bộ Binh Thủ Ðức.<br /><br /> Tỉnh Phước Tuy và Ðặc Khu Vũng Tàu, trong đó có quốc lộ 15 được Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, SD3BB phối họp với các lực lượng DPQ + NQ của Phước Tuy và Bình Thuận di tản từ miền Trung vào. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh SDTQLC kiêm Tổng trấn đặc khu Vũng Tàu. Riêng SD3BB từ vùng1CT di tản vào, quân số kể luôn SD1BB cộng được hơn 1000 người, lập thành 2 tiểu đoàn thuộc Trung Ðoàn 2/3 và 56/3 vẫn do Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh làm tư lệnh. SD3BB được tăng cường thêm Chi đoàn 2/15 Thiết Kỵ và Lữ Ðoàn 1 Dù, bảo vệ QL15, thị xã Bà Rịa-Vũng Tàu.<br /><br /> Tỉnh Biên Hòa và phi trường do Lực lượng III xung kích của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, được tăng phái thêm 2 Lữ đoàn 147 và 258 TQLC phòng thủ. Từ ngày 28-4-1975, để bảo vệ thành phố Biên Hòa, Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù bố trí trong phi trường giữ mặt bắc Bộ tư Lệnh QDIII. Một TD/TQLC thuộc Lữ Ðoàn 2 bảo vệ BTL.QDIII, các thành phần còn lại của Lữ Ðoàn, phòng thủ mặt nam BTL. Quân Ðoàn. Lữ Ðoàn Nhảy Dù giữ hai Cầu Mới và Sắt cùng các nút chận vào thị xã. Riêng Lực Lượng III Xung kích gồm Chiến Ðoàn 315phòng thủ từ Ngã ba Hố Nai đến Ngã tư Lò Than. Chiến đoàn 322 giữ từ Ngã tư Lò Than tới cổng phi trường Biên Hòa và Chiến đoàn 318 từ phi trường tới Cầu Mới.<br /><br /> Về phía bắc Sài Gòn có SD25BB của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá được tăng phái thêm hai Liên Ðoàn 8 và 9 Biệt Ðộng Quân, trách nhiệm Tây Ninh và Củ Chi-Hậu Nghĩa. Mặt trận phiá bắc tỉnh Bình Dương là trách nhiệm của SD5BB của Chuẩn Tướng Lê NguyênVỹ, kể cả Trung Ðoàn 8/5 của Ðại Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng tăng phái cho Lực Lượng III Xung kích của Tướng Khôi ở Hưng Lộc, vừa được trả về. Phòng tuyến phía nam Sài Gòn là Long An, có SD22BB ở Bình Ðịnh di tản tới, phối hợp với Lực Lượng 99 Tuần Thám Ngăn Chận của Hải Quân và DPQ+NQ.Long An, từ lâu nổi tiếng là kiêu dũng thiện chiến, không kém gì quân chủ lực. Như vậy trừ ba SD7,9 và 21BB của QDIV phải bảo vệ lãnh thổ của các tỉnh thuộc Vùng 4/CT. Phía VNCH chỉ còn lại : sáu Sư Ðoàn gồm SD5,18,22,25 bô binh + Hai Lữ Ðoàn 1 và 4 Nhảy Dù + Sư đoàn TQLC + Lực Lượng III Xung Kích +Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù +4 LiênÐoàn BDQ + DPQ và NQ + 625 chiến xa đủ loại và 400 pháo, tất cả chừng 240.000 người, để bảo vệ Sài Gòn. Trong khi đó VC tung vào 5 lộ quân với quân số trên 280.000, gồm 15 Sư đoàn BB + 5 Lữ đoàn biệt lập + 4 Lữ đoàn thiết giáp + 6 Trung Ðoàn Ðặc công.Tất cả được trang bị đầy đủ với các vũ khí bom đạn hiện đại, không thua gì quân đội Mỹ.<br /><br /> Từ chiều ngày 29-4-1975, hai Bộ Tư Lệnh Không quân và Hải quân VNCH đã di tản chiến thuật, kể cả Tướng Nguyễn Văn Toàn (Tư lệnh QDIII) và Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng TMT từ chức. Do đó, tổng thống mới nhậm chức là Dương Văn Minh, cử Tướng Vĩnh Lộc lên thế chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Ðến tối cùng ngày, Tướng Lộc ra lệnh cho SD18BB về bố trí từ Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hoà, tới Thủ Ðức.<br /><br /> Từ đầu tháng 4-1975, trường Bộ Binh Thủ Ðức đã dời về Long Thành-Biên Hòa, đông nghẹt sinh viên các khóa, trong đó có hai quân trường từ Ðà Lạt di chuyển về là Trường Võ Bị và Chiến Tranh Chính Trị. Lúc 8 giờ tối ngày 27-4-1975, trường Bộ Binh lại có lệnh di chuyển trở về trường củ ở Thủ Ðức. Tới 8 giờ sáng ngày 30-4-1975, có bốn T54 của cọng sản Bắc Việt từ Xa Lộ Biên Hòa, tấn công trường, bị Pháo Binh 105 bán trực xạ cháy 3 chiếc tại chỗ. Nhưng chiếc còn lại đã nhập dược vào trung tâm, sau khi thoát được các tầm đạn M72 của sinh viên, bắn tử thượng Trung Tá Ông văn Tuyên, Trung sĩ I Nhân và 5 sinh viên, cùng 10 người bị thương, trong số này có Trung Tá Vương Bá Thuần. Cuối cùng chiếc tăng trên bò ra khỏi trường và bi M72 bắn đứt xích, nằm tại Niệm Phật Ðường cạnh Chợ Nhỏ, nhưng vẫn tác xạ dữ dội vào trường. Giờ chót, có hai sinh viên Thủ Ðức, chưa được gắn Alpha, tình nguyện mang lựu đạn lân tinh loại xuyên phá, mới tiêu diệt được chiếc T54 này.<br /><br /> Cũng tại Long Bình vào sáng ngày 29-4-1975, Tiểu đoàn 43 thuộc Liên Ðoàn 4 BDQ, do Thiếu Tá Xẻn làm TDT, được lệnh của Biệt Khu Thủ Ðô,tăng phái phòng thủ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Từ 2 giờ 30 chiều cùng ngày, VC đã về tới Trung Chánh-Hóc Môn, sau khi chiếm được Căn cứ Ðồng Dù của SD25BB, căn cứ Pháo binh Lòng Tảo và đánh tan Trung Ðoàn 46/25BB trên QL số 1 từ Củ Chi về Tân Phú Trung. Lúc đó Trường Quân Vận đối diện với TTHL Quang Trung cũng đã mất, nên Chiến xa của VC bắt đầu tấn công trung tâm, nhưng không ngờ trong đó không phải chỉ có tân binh quân dịch, mà còn sự hiện diện của một tiểu đoàn BDQ vơí hơn 500 tay súng, suốt cuộc chiến, đã cùng với các TD41,42,44 là những cọp ba đầu rằn tung hoành như chỗ không người trong mật khu sình lầy của Vùng 4 Chiến thuật. Tối 29-4-1975, qua hệ thống truyền tin của TD43BDQ, mới biệt BTL Biệt Khu Thủ Ðô đã bỏ chạy, chỉ còn các sĩ quan cấp uý ở lại nhưng BCH.Biệt Ðộng Quân và Tướng Ðổ Kế Giai vẫn còn nguyên vẹn tại Trại Tô Hiến Thành. Bên trong chiến hào của TTHL Quang Trung, cũng như suốt đoạn đường từ ngã ba Trung Chánh- Hóc Môn, về tới Ngã tư Bảy Hiền, các đơn vị kiệt hiệt nhất của QLVNCH như BDQ, Biệt Cách Dù và Nhảy Dù đang đợi chờ một trận đánh cuối cùng dũng liệt như SD18BB, LD1ND,TD82BDQ và DPQ Long Khánh, tại Xuân Lộc, thì trưa 30-4-1975 bị Dương Văn Minh ban lệnh buông súng rã ngũ, một cách tức tủi đoạn trường.<br /><br /> 5 giờ chiều ngày 29-4-1975, các mặt trận, lính vẫn chiến đấu không ngừng nghĩ. Tại Biên Hòa, các đơn vị TQLC, Biệt Cách Dù và các Chiến Ðoàn thuộc Lực Lượng III Xung Kích, đã ngăn chống VC tại các phòng tuyến vô cùng đẫm máu kinh hoàng.<br /><br /> Tại BCH.Thiết Giáp trong trại Phù Ðổng, cũng là nơi đặt tạm BTL.QDIII từ Biên Hòa di tản về, cũng như Trung Tâm Hành Quân /BTTM/QLVNCH gần như không còn đại bàng để nhận tin chiến trường và quyết định lệnh lạc. Cho tới 22 giờ 30 đêm 29-4-1975, Phế tướng Nguyễn Hữu Có, người vào năm 1965 bị Nguyễn Cao Kỳ lột chức và bắt ở lại Hồng Kông không cho về nước, cách đó vài giờ, vừa được TT.Dương Văn Minh gắn cho cái lon Trung Tướng, lên máy ra lệnh cho SD18BB của Thiếu Tướng Ðảo và LL3XK của Tướng Khôi, cố gắng giữ yên phòng tuyến trong đêm 29-4-1975, để rạng sáng ngày 30-4-1975 sẽ có hòa bình vì cọng sản Bắc Việt đã chịu hòa họp hoà giải hòa chung máu lệ với TT. Minh và lực lượng thứ ba đối lập.<br /><br /> Nhưng 23 giờ 45 đêm 29-4-1975, Bắc Việt đã không hòa hợp mà lại tấn công dữ dội bằng bộ binh và chiến xa khắp các phòng tuyến tại Biên Hòa. Hai bên gần như cận chiến với khoảng cách chừng 10-15m, nhất là tại phòng tuyến do quân Dù, TQLC và Chiến Ðoàn 315 của Trung Tá Ðổ Ðức Thảo có chiếnxa M48 tham chiến.<br /><br /> 2 giờ sáng ngày 30-4-1975, phòng tuyến SD18BB của Tướng Ðảo tại Long Bình bị VC tràn ngập, quân ta từ Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa phải rút về Thủ Ðức.<br /><br /> Riêng Chiến Ðoàn 3, thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù của Thiếu Tá Phạm Châu Tài, quân số hơn 1000 người, từ Biên Hòa được điều động về bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu từ 5 giờ 30 ngày 26-4-1975. Bộ Chỉ Huy Chiến Ðoàn đóng tại Building số 1, đối diện vối Trại Võ Tánh. Các Biệt đội 811 của Ðại Uý Lâm đóng trong Lục Quân Công Xưởng. Biệt đội 812 của Ðại Uý Ánh đóng ở giữa cổng sau TTM và Tổng Y Viện Cộng Hòa. Biệt đội 813 ủa Ðại Uý Thạch rải quân từ Ngã Tư Bảy Hiền tới Trại Phi Long của Nhảy Dù và Biệt Ðội 815 của Ðại Uý Lợi là lực lượng trừ bị của Chiến Ðoàn, đóng trước cổng Bộ TTM.<br /><br /> Từ ngày 28-4-1975, các đại bàng ở Bộ TTM, Bộ Tư Lệnh QD3, Quân Khu Thủ Ðô.. từ Ðại Tướng trở xuống đã di tản chiến thuật, nên coi như không còn ai ra lệnh cho thuộc cấp dưới quyền. Về việc tên phi công nội tuyến Nguyễn Thành Trung, dẫn đoàn máy bay của KQ.VNCH bỏ lại ở Phù Cát, Phan Rang vào oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất, không bị Chiến Ðoàn 3 Biệt Cách Dù bắn hạ, vì đã tưởng là phe ta làm đảo chánh.<br /><br /> Chiều ngày 29-4-1975, tướng Vĩnh Lộc được TT.Minh cử làm Tổng Tham mưu trưởng thay Cao Văn Viên, còn Nguyễn Hữu Có thì gắn ba sao, xưng là Tổng Tham Mưu Phó. Ngoài ra còn có VC nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh, cũng được Dương Văn Minh gắn sao tướng, dù Có và Hạnh đã bị giải ngũ từ lâu. Mới đây VC lại cho các tên hề Có, Hạnh và Triệu Quốc Mạnh làm cuộc phỏng vấn cuội tại Sài Gòn, do bọn Việt gian hải ngoại từ Canada về thực hiện, rồi đem phát trên đài để lừa bịp người Việt trong và ngoài nước, một cách trơ trẽn vì câu chuyện lãng xẹt của đám sâu bọ, từng làm xấu hổ danh dự và thể thống của người lính VNCH năm nào.<br /><br /> Từ 6 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, VC pháo kích bừa bãi hỏa tiễn 122 ly vào khu dân cư đông đúc, có mấy trái rớt xuống đường Võ Di Nguy, làm nhiều đồng bào thương vong. Các trái khác rơi vào vòng thành Bộ TTM. Trên các đường phố dẫn tới Ðại Lộ Chí Lăng, chiến xa Bắc Việt đã xuất hiện, bắn vào Bệnh Viện Vì Dân tại Ngã Tư Bảy Hiền nhưng bị Biệt Cách Dù, dùng súng đại bác M90 ly không giựt, chỉ trong vòng 15 phút, bắn cháy 6 chiếc T54, PT76 cùng với một khẩu pháo phòng không có bánh xe kéo, với nhiều đặc công bị chết, nằm rải rác từ Bảy Hiền tới Bộ TTM.<br /><br /> 9 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, Dương Văn Minh ra lệnh cho Chiến Ðoàn 3 Biệt Cách Dù, lúc đó còn đang tử chiến với VC, phải ngưng đánh nhau, để chờ đầu hàng. Tuy nhiên nhiều toán không tuân lệnh, vẫn tiếp tục bắn vào các đoàn xe của VC, sau đó tự tử tập thể bằng lựu đạn vào giờ thứ 25. Riêng 2 Chiến Ðoàn Biệt Cách Dù do Ðại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy, sáng ngày 30-4-1975, từ Suối Máu rút về Nghĩa trang Quân Ðội Biên Hòa, khi nghe lệnh Dương Văn Minh bắt đầu hàng, nên cũng rã ngũ tại đây.<br /><br /> Khôi hài nhất là lúc mà người lính đang nối tiếp nhau ngã gục khắp các chiến trường, để bảo vệ cho thủ đô Sài Gòn và cuộc di tản bằng máy bay trực thăng của Mỹ, trên các mái nhà tại Cơ quan Dao và Tòa Ðại Sứ, thì gần hết tướng lãnh bỏ chạy trước. Còn Chính phủ Dương Văn Minh vừa mới nhậm chức, thì đã sai Nguyễn Văn Huyền vào Trại David, để thương thuyết với giặc xin đầu hàng, nhưng bị Võ Ðông Giang làm nhục và bắt giam luôn bọn Việt Gian Chân Tín, Châu Tâm Luân và Trần Ngọc Liễng, từ chiều ngày 29-4-1975, khi vào làm sứ giả hòa bình.<br /><br /> Trong cuộc di tản ra khỏi nước, ngoài người Mỹ còn có đủ mọi thành phần lúc đó, từ quan tướng, trí thức, thầy cha, nhà báo, ca sĩ, mẹ mìn, đĩ điếm, gian thương Ba Tàu.. Nhiều tên vô liêm sỉ còn đem cả vợ mình dâng cho Mỹ đen lẫn trắng, để đổi lấy chổ chạy trên máy bay ra khỏi nước. Loại người này, giờ cũng chính là những tên đầu tiên, trở về nguồn khi đi hết biển, để làm ăn hợp tác với VC. Tất cả đạp lên đầu lẫn nhau để kiếm một chỗ chạy ra khỏi nước trốn cọng sản. Lúc đó không còn ai thèm nghỉ tới tư cách, thể diện, trinh tiết hay gì gì nửa. Kỳ cục nhất là những chuyên viên đối lâp, phản chiến, phá hoại và nói xấu chính phủ VNCH, giờ phút cuối lại là những thành phần hăng hái chạy trốn nhiều và trước hết. Ba mươi năm sau mới chợt hiểu, thì ra họ chỉ có thể chũi người quốc gia mà thôi. Với cọng sản, dù chỉ mới léng phéng mồm miệng, không bị roi đòn thoi đấm, hay ăn mã tấu, vào tù, bị cột đá neo sông, mới là chuyện lạ. Bởi vậy phải nhanh chân chạy trước ra ngoại quốc, để được tiếp tục đối lập với người Việt tị nạn, lần nữa làm tôi mọi cho cọng sản, dù rằng đã vì chúng mà phải một lần chuốc lấy sự nhục nhã năm nào.<br /><br /> Sài Gòn náo loạn khắp nơi, dân chúng ùn ùn kéo tới các ngân hàng rút tiền ký thác. Các Tòa Ðại Sứ lần lượt đóng cửa, cũng như nhiều Hãng Máy bay ngưng hoạt động vì sợ họa lây. Hòn Ngọc Viễn Ðông như đã chết vào những ngày gần cuối tháng 4-1975<br /><br /> Thế rồi 9 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, trong lúc mọi người đang mê tỉnh trong cơn hấp hối của đất nước, thì Dương Văn Minh vì nghe lời xúi dại của bọn thân Cộng như Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Hữu Hạnh, nên lợi dụng chức vụ tổng thống tổng tư lệnh quân đội, ép QLVNCH buông súng rã ngủ, trong khi tất cả còn đang tử chiến với giặc ngoài biên đình.<br /><br /> Hỡi ơi VN chỉ vì một tên hám danh lừng khừng, mà cả một dân tộc chịu cảnh lầm than nô lệ từ ba mươi ba năm qua và không biết tới bao giờ mới thoát khỏi xích xiềng tù ngục. Tất cả đều là ý trời, là số mệnh, là hậu quả tất yếu của một hậu phương miền Nam vô tình bạc nghĩa, chỉ biết hưởng thụ cá nhân, nên chẳng bao giờ chịu chia xẻ nỗi đau cùng cực của người lính, đã vì họ mà vong thân hay tàn phế nữa đời.<br /><br /> Nhưng rồi giặc chiếm được nước, tất cả dân lính cùng chịu cảnh tan tác phân ly không chừa hay bỏ sót một thành phần nào, kể cả những người một thời theo giặc. Lính bỏ súng vào tù, dân không còn được lính bảo vệ, nên bị đe dọa mạng sống và mất hết tự do kể cả quyền sống làm người dân thường bên vệ đường.<br /><br /> Trưa 30-4-1975, bộ đội Bắc Việt hồ hởi tiến vào Sài Gòn. Người người cùng cười dù đang thúi ruột, vì lần đầu tiên được chạm mặt với rợ Hồ, lù khù, ngô nghê. Nhiều chàng nàng cục mịch trong bộ đồ trận, với nón cối, dép râu, y chang những con dã nhân trong sở thú. Vậy mà suốt ba mươi ba năm qua, tháng tư nào cũng khoe là mùa xuân đại thắng, hay huênh hoang nhận đại là quân đội nhân dân anh hùng.<br /><br /> Phút cuối vẫn còn một số đơn vị Dù, TQLC, BDQ, Biệt Cách Dù.. không thèm nghe lệnh của Dương Văn Minh. Họ chận đánh cọng sản Bắc Việt, trên các đường phố Hồng Thập Tự, Thị Nghè. Tại Ðại lộ Thống Nhất, lính Dù và BDQ bắn M72 vào xe tâng VC khi chúng tiến vào chiếm Dinh Ðộc Lập.<br /><br /> Ðúng 12 giờ 30 trưa ngày 30-4-1975, lá cờ vàng ba sọc đỏ của quốc dân VN treo trên nóc Dinh Tổng Thống VNCH bị giặc tước bỏ. Dương văn Minh và toàn bộ nội các có mặt tại dinh, bị bộ đội miền bắc, nhốt giữ tại chỗ, dù từ lớn tới nhỏ, đã sùi bọt mép nịnh bợ ca tụng chúng. Nhục nhã muôn đời là cả đám bị thu hình trước ống kính của hằng trăm nhà báo ngoại quốc. Cũng vào giờ phút mà Dương văn Minh bị còng tay gục đầu, thì tại Bộ Quốc Phòng, Trung Tá Nguyễn văn Cung, thuộc SD18BB khi nghe tin đầu hàng đã tự sát. Nhiều lính Dù cũng dùng súng M16 kết liễu đời trai trước Tổng Cục Chiến Tranh Chính trị. Trong trại Hoàng Hoa Thám, một toán lính Nhảy Dù, nắm tay làm thành vòng tròn, rồi mở chốt lựu đạn để cùng chết tập thể. Một Ðại Úy Cảnh Sát tự bắn vào đầu chết trước Quốc Hội. Trong khi đó các tướng lãnh Phạm văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Lê nguyên Vỷ, Phạm Văn Hai.. cũng quyên sinh khi thành mất. Ðó là những hình ảnh tuyệt vời, ngàn đời khắc sâu trong tâm khảm của người Việt và những trang sử bất diệt của dân tộc.<br /><br /> Sài Gòn đã chết từ đó, dân chúng thành đô dửng dưng trước chủ mới. Cùng lúc, có nhiều con khỉ trong sở thú, vừa được sổ chuồng, cổ quàng khăn đỏ, tay phất cờ máu, trang bị súng đạn lượm được của lính bõ bên vệ đường, chễm chệ trên các xe quân đội, tung tăng múa rối khắp đường phố, cổ võ, làm oai, hoan hô, đã đảo một cách lố bịch.<br /><br /> Trưa đó, 125 nhà báo ngoại quốc còn nán lại, đổ xô tới chiêm ngưỡng những anh hùng cách mạng, mà từ năm 1960-1975, họ đã không ngớt xưng tụng và tô son đánh phấn khắp thế giới không tiếc lời. Nhưng sự thật đã làm té ngửa các trái tim thú vật, khi biết được tất cả chỉ là sự tuyên truyền lừa bịp của miệng lưỡi cọng sản, mục đích để cho thế giới có thành kiến không tốt và ghét bỏ VNCH. Có như vậy họ mới bỉ ổi ca tụng một chiều cuộc xâm lăng miền Nam của Bắc Việt, mà không cần phải tìm hiểu sự thật.<br /><br /> Từ đó, thế giới mới bắt đầu tỉnh ngộ và chịu viết về một sự thật mà họ đã cố tình dấu diếm : ‘ Không có ai là người miền nam, tất cả đều là bộ đội miền bắc, trong tập đoàn đệ tam cọng sản quốc tế, do Liên Xô-Trung Cộng cầm đầu ‘.Riêng Norman Podhreta, khi về nước đã viết trên tờ Los Angeles times :’ Nam VN bị mất, không phải vì cấu xé nội bộ, cũng không do nhiệt thành quốc gia hay vì chính phủ không tranh thủ được lòng dân. Sự thật tất cả do sự xâm lăng của Bắc Việt, qua hậu thuận của khối cọng sản đệ tam quốc tế, trong đó có đảng cọng sản Hoa Kỳ .’ Còn nữ ký giả Ý từng ca tụng Hồ Chí Minh, tên Tiziano Tersani thì viết ‘ Binh sĩ tấn công vào Sài Gòn đều là bộ đội Bắc Việt. Sự phân biệt rất dễ dàng nhờ hình vóc và tiếng nói, người miền bắc hoàn toàn khác lạ với VC miền nam. ‘.Một nữ ký giả Pháp, Brigitte Friang thì mai mỉa hơn ‘ Trưa 30-4-1975, bộ đội Bắc Việt vào Sai Gòn. Ðây là một thành phố chết, chỉ có 125 nhà báo ngoại quốc và hơn một chục đứa con nít nam nữ, trương cờ máu đế chào đón chúng. Ba triệu dân miền Nam nhìn chúng bằng thái độ lãnh đạm. Vậy mà Trần văn Trà, Nguyễn Thị Bình đi đâu cũng tuyên bố rằng, chính nhân dân miền nam đã tổng nổi dậy, để lật đổ chính phủ VNCH’.<br /><br /> Nhưng cay cú nhất, phải là lời viết của Jean Larteguy, một nhà báo Pháp từng cuồng nhiệt ca tụng Hồ Chí Minh và VC như thần thánh trong nhiều năm qua . Ông viết ‘Sài Gòn mất bởi đạo quân Bắc Việt. Nhìn đoàn quân chiến thắng đang hồ hởi trên những chiếc tăng T54 hay PT46, treo cờ máu , đâu có khác gì cảnh quân Sô Viết đàn áp, xâm lăng Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Ba Lan tai Ðông Âu năm nào .’<br /><br /> Ba mươi ba năm qua, hầu hết đồng bào VN trong cũng như ngoài nước tan nát cửa nhà sau cuộc đổi đời không bao giờ dám nghĩ là sẽ có. Nên cứ mỗi lần tháng tư quốc hận tới, cho dù ai chăng nửa, đại đa số người dân sống thầm lặng bên vê đường thời gian hay thiểu số dấn thân trên con đường đấu tranh quang phục đất nước, đều mang chung tâm trang bi thương, tức tưởi, ngậm ngùi.<br /><br /> Tất cả đều là sự thật vì mọi bí mật của cuộc chiến đã được các phe phái, chính người trong cuộc hay các sử gia tìm hiểu, như giáo sư Morris ‘ Cọng sản Hà Nội đã thắng cuộc xâm lăng miền nam, nhờ tuyên truyền, đẻ và thổi phồng bịa đặt các huyền thoại chính trị mà hầu hết, đều là chuyện trên trời dưới biển. Có như vậy, VC mới dụ dỗ và phỉnh gạt được, nhiều trí thức khoa bảng nhà báo trong và ngoài nước. Nhờ thế suốt cuộc, chính thành phần này đã góp phần chiến thắng cho Hà Nội, không phải ở chiến trường, mà là tại Paris, Luân Ðôn và Hoa Thịnh Ðốn. ‘<br /><br /> Ba mươi ba năm rồi, xin hãy trả lại cho người lính trận miền nam những gì họ đã mất từ lâu, do những kẽ cứ hay tự xưng mình là trí thức, đã cướp đoạt. Người lính VNCH không cần bất cứ ai phải vinh danh, vì chính cái phẩm cách tuyệt luân phi thường của lính, đã có một vị trí xứng đáng trong lòng dân tộc<br /><br /> Bổng ao ước sao cho đất nước sớm có tự do cuộc đời trở lại như thuở nào, để dân-lính lại thỏa tình cá nước, lính từ dân mà có và dân sống được nhờ sự bảo vệ thần thánh và chân thành của lính, điển hình như các cuộc di tản khỏi vùng chiến cuộc Tết Mậu Thân 1968, mùa hè đỏ lửa 1972, cuộc di tản tại Bình Thuận, Xuân Lộc và những ngày Sài Gòn hấp hối, cuối tháng 4-1975.<br /> <br />‘ Ta về cúi mặt đầu sương điểm<br />nghe nặng từ tâm lượng đất trời<br />cám ơn hoa đã vì ta nở<br />thế giới vui vì mọi lẻ loi ‘<br />(Thơ Tô Thùy Yên)<br /> <br /> Ba mươi ba năm trước hay bây giờ, người Mỹ cũng chỉ nghỉ đến quyền lợi của quốc gia mình mà thôi. Bởi vậy muốn đem quân vào VN, người Mỹ phải giết một tổng thống dân cử của bản xứ. Rồi để rút quân an toàn về nước, khi đã đạt xong mục đích chiến lược kinh tế của mình, Mỹ lại dùng áp lực quân viện, để bắt buộc đồng minh của mình, ký vào một hiệp ước giả mạo phi luân. Cuối cùng dùng nó để bán đứng quốc gia VN, chôn vùi tương lai của dân tộc anh hùng trong vòng nô lệ của cọng sản đệ tam quốc tế., suốt thời gian từ đó tới bây giờ. Tất cả đúng như lời Sir R.Thompson đã viết năm 1989 trong tác phẩm ‘ Make for the hill ‘, đại ý ông nói rằng, sự sống của miền nam VN đã bị bán đứng , vì cảnh cấu xé của nước Mỹ. Riêng Nixon, nhân vật chính đã cùng Kissiger đạo diễn tấn thảm kịch VN hôm nay, cũng đã viết những lời sám hối trong ‘ No More VietNam ‘.Ông viết rằng, tôi đã nhìn thấy những vấn đề nan giãi của hiệp định Ba Lê, nhất là sự thỏa hiệp, cho phép bộ đội Bắc Việt công khai ở lại và xâm lăng miền Nam . Nhưng đau đớn nhất, có lẽ là lời phát biểu của M. Gauvin, nguyên Ủy Viên Giám Sát Quốc Tế (ISCC) tại VN. Ngay khi thấy CS Hà Nội ngang nhiên xé bỏ hiệp định ngưng bắn mà chúng vừa ký kết chưa ráo mực, tấn công xâm lăng VNCH, bất chấp cả Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc. Vì vậy ông đã viết bài đăng trên tờ The Times số 59362 ngày 5-4-1975 rằng, sự thất bại của VNCH đã bắt nguồn từ hiệp định Ba Lê, vì nó chẳng bao giờ phản ảnh được ý muốn và nguyện vọng của dân-nước VNCH.<br /><br /> Một thập niên sau ngày Mỹ bỏ chạy khỏi Sài Gòn trong đêm tối trên mái nhà, do những biến chuyển chính trị thế giới, quan trọng nhất là sự hòa hoãn giữa Nga-Hoa cũng như sự liên hệ của Mỹ và Trung Cộng có chiều hướng thay đổi. Ðể chiếm phần ưu tiên, người Mỹ lại tìm cách mon men trở lại Ðông Dương lần thứ 4 vào tháng 4-1985. Bởi vậy một phái đoàn cao cấp của Mỹ , do Richard Armitage cầm đầu, cùng với phụ tá ngoại trưởng Mỹ là Paul Wolfon Witz (đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương ), lần đầu tới Hà Nội, với chiêu bài ‘ tìm lính Mỹ mất tích và hài cốt quân Hoa Kỳ còn tại VN’. Sự kiện giằng co úp mở giữa hai nước, cho tới khi phái đoàn nghiên cứu Mỹ do cưu bộ trưởng quốc phòng Mc.Namara, sau khi thăm viếng Hoa Lục về, đã tiết lộ âm mưu Trung Cộng đang có dã tâm muốn trở thành Á Châu và Thái Bình Dương. Vì thế Hoa Kỳ mới mở phòng liên lạc giữa hai nước vào ngày 3-2-1995 và nối lại bang giao năm 1996. Một Ðại Sứ Mỹ tại Hà Nội được Thượng viện Hoa Kỳ chấp thuận sau 22 năm chiến tranh chấm dứt, đã chính thức xác nhận sự bình thường hoá ngoại giao với VC.<br /> <br /> Ngày nay, lịch sử đã ngừng lại và quay tròn đúng vào thời điểm củ trên đất nước tội nghiệp VN. Cả hai : Tài phiệt Hoa Kỳ và cọng sản đệ tam quốc tế cũng đều vì quyền lợi riêng tư của mình, nên muối mặt đổi thù thành bạn. Lần này không còn có chiêu bài VN là tiền đồn chống cộng, nên người Mỹ đã công khai tới VN qua danh phận lái buôn lái súng. Hiện trong cộng đảng cầm quyền đã manh nha hai phe theo Tàu, theo Mỹ. Nhưng dù VN có theo phe nào chăng nửa, thì chắc chắn đất nước chúng ta cũng sẽ bị cuốn hút theo vết xe lịch sử, khi Trung Cộng công khai gây nên thế chiến lần thứ 4 tại Á Châu-Thái Bình Dương.<br /><br /> Ðọc và viết lịch sử, không phải để khóc hận than thân, mà là lấy đó làm một kinh nghiệm để hành động cứu nước trong thực tại và tương lai. Năm 1954, khi cọng sản đệ tam chiếm được miền bắc, một số ít trí thức khoa bảng chạy vào làm trùm tại VNCH, nên họ chẳng hề biết gì về kinh nghiệm sống chung với VC. Ngày 30-4-1975, khi VC chưa vào Sài Gòn, số trí thức khoa bảng trên lại ù trốn chạy sang Mỹ hay ngoại quốc. Họ không hề biết thế nào là sự đổi đời của phận người xuống hàng súc vật. Ở ngoại quốc, vì quá tự do, nên vẫn chứng nào tật đó, coi sự hiểu biết của mình ngang hàng với lãnh tụ, muốn ai cũng phải theo ý và đứng sau lưng mình. Họ vì không sống thật với lịch sử nên chẳng bao giờ có kinh nghiệm lịch sử, vẫn ảo tưởng xây lâu đài và chức phận trên cát biển, vẫn ngây thơ muốn hòa hợp hòa giải, với một đảng cướp tàn bạo bất lương, qua bảy mươi năm chỉ lừa bịp lường giết đồng bào và ban nước mình mà thôi. Tệ nhất là mình và gia đình lúc nào cũng thích sang giàu hạnh phúc nơi thiên đường Âu Mỹ, mà mồm thì luôn xuí người khác, nếu đi hết biển, thì phải trở về để làm nô lệ cho cọng sản .<br /><br /> Cũng may bọn người này không nhiều và ngày nay hầu hết đều giống như những bình vội gìa nua, mà Phan Khôi từng ví với bọn cán ngố miền bắc trong tác phẩm ‘ Trăm Hoa đua nở ‘, chỉ nổ trên giấy hay nằm trơ trọi trong góc đời hiu quạnh về chiều..<br /><br /> Thảm thê cho thân phận nhược tiểu VN , hết bị Tàu đô hộ tới Pháp, Nhật, Mỹ, Liên Xô.. rồi nay lại làm đầy tớ cho cả thế giới, mà điển hình nhất là hình ảnh của những công nhân lao động và phụ nữ bị bán ra nước ngoài. Không biết bao giờ đất nước và đồng bào mới thoát được nổi thống hận trên, để cho con cháu có cơ hội ngẩn mặt nhìn trời, người Việt tị nạn tha phương, trở về cố quốc, một cõi lòng mà ai cũng hoài vọng ao ước, khi quê hương không còn bóng dáng lá cờ máu và đảng CSQT .<br /><br /> Ba mươi ba năm trước, đầu tháng 4-1975 Cộng Sản Bắc Việt chiếm Phước Long, mở đầu cuộc xâm lăng VNCH, đưa cả nước và dân tộc Việt vào tận cùng của địa ngục trần gian. Ðầu tháng 4-2008, cả nước đang đắm chìm trong sự khủng hoảng kinh tế , chính trị.. đưa đồng bào cả nước vào tận cùng cảnh nghèo đói thảm tuyệt, chưa từng thấy trong dòng Việt Sử. Có điều chỉ có người dân nghèo mới nhận chịu nổi đau cùng khốn này, còn đảng và cán bộ nhà nước thì làm gì bị ảnh hưởng tới thời cuộc đổi thay, vì vàng đô la vơ vét mấy chục qua, xài phí biết bao giờ mới cạn ?<br /><br /><br />Xóm Cồn<br />Mùa Quốc Hận 2008.<br />Mường Giang</strong>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-8193358154389883242008-03-28T16:46:00.000-07:002008-12-11T03:12:36.261-08:00SU THANH HINH CUA QLVNCH<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgHOgeesy4h_tNIdZ0wpweKkIiEvk2XclSNWR385CMZFKYQPt3nuKSpTiw4udbg2mMJT2LaLZjz3mCExtDMCy_QTH0t5mf1GhYzmTcgn3HlIr-OojOVBYR46Xyaew2Qyw7YqtZ5V79kkAM/s1600-h/vnchflyer.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgHOgeesy4h_tNIdZ0wpweKkIiEvk2XclSNWR385CMZFKYQPt3nuKSpTiw4udbg2mMJT2LaLZjz3mCExtDMCy_QTH0t5mf1GhYzmTcgn3HlIr-OojOVBYR46Xyaew2Qyw7YqtZ5V79kkAM/s400/vnchflyer.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213264750871631874" /></a><br /><br /><span style="font-weight:bold;">Khái lược về lịch sử hình thành của Quân Lực VNCH<br /><br />Hoàn cảnh chánh trị lúc Quân Ðội Quốc Gia VN ra đời<br /><br />Lịch sử thành lập Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa là một tiến trình khá phức tạp trải dài trong nhiều năm, và gắn liền với những diễn biến của giòng lịch sử Việt Nam cận đại. Ðể độc giả có một ý niệm khái quát về sự hình thành đó, chúng tôi xin tóm lược hoàn cảnh chính trị của nước nhà vào thời kỳ chiến tranh Việt Nam bắt đầu bùng nổ.<br /><br />Sau khi Ðệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, quân đội viễn chinh Pháp trở sang Ðông Dương đem theo lực lượng hùng hậu chiếm đóng ba xứ Việt, Miên, Lào, với manh tâm đặt lại nền đô hộ trên các thuộc địa cũ theo chánh sách thực dân cố hữu của người Pháp. Tướng De Gaulle bổ nhiệm đô đốc Thierry d'Argenlieu làm cao ủy Ðông Dương và danh tướng Leclerc de Haute Cloque làm tư lệnh quân đội viễn chinh. Vào cuối tháng 9 năm 1945, quân đội Pháp đã núp bóng quân đội Anh do tướng Gracey chỉ huy để giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở xuống.<br /><br />Cuộc xâm lăng mới của Pháp này đã gặp sức kháng cự mạnh mẽ của người Việt Nam, nhất là các đoàn thể võ trang như Việt Minh, Cao Ðài, Hòa Hảo, Bình Xuyên trong miền Nam, và các đảng phái quốc gia như Việt Nam Quốc Dân Ðảng và Ðại Việt ở miền Trung và Bắc. Mặc dù tinh thần kháng chiến chống thực dân của dân ta rất cao, nhưng vì vũ khí thô sơ và tổ chức còn rời rạc, nên các lực l ượng võ trang này bị quân Pháp đánh bại mau lẹ. Ða số phải rút về thôn quê hay vào bưng biền để tổ chức trường kỳ kháng chiến. Tuy một số dân chúng còn lại ở các thành phố và vùng bị chiếm đóng đã phải ngả theo Pháp vì lý do sinh kế hoặc muốn được yên thân, nhưng trong lòng đa số dân Việt lúc đó đều nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, mong sớm phục hồi được độc lập và thống nhất cho quốc gia.<br /><br />Trong số những người phải ra cộng tác với Pháp, một số đã gia nhập quân đội viễn chinh và được gọi là Thân Binh Ðông Dương (Partisans Indochinois). Về sau, vì nhu cầu chiến tranh bành trướng mau lẹ, người Pháp đã tuyển mộ lính địa phương tại chỗ và lập thành các lực lượng phụ thuộc (forces suppletives) do sĩ quan Pháp chỉ huy. Tưởng cũng nên nhấn mạnh rằng: không phải ai hợp tác với người Pháp cũng đều là Việt Gian. Ngược lại, nhiều người là những phần tử Quốc Gia chân chính chỉ muốn nhờ cậy vào thế lực của Pháp để chống lại bọn Cộng Sản Việt Minh.<br /><br />Sang năm 1948, giải pháp Bảo Ðại ra đời với chủ trương đoàn kết các lực lượng quốc gia để chống Việt Minh, vì lúc đó thành phần này đã ngả theo phe Cộng Sản quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Nga, Tàu để chống lại khối dân chủ tây phương.<br /><br />Theo hiệp ước Élysée ký ngày 8 tháng 3 năm 1949 giữa quốc trưởng Việt Nam Bảo Ðại và tổng thống Pháp Vincent Auriol, nước Việt Nam được trao trả nền độc lập, có quân đội và chính sách ngoại giao riêng. Do đó, quân đội Việt Nam được chính thức thành lập và lấy tên là Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam.<br />Thời kỳ phôi thai (1946-1949)<br /><br />Do nghị định quốc phòng ngày 13 tháng 4 năm 1949, quân độc Việt Nam được thành lập, lúc đầu lấy tên là Vệ Binh Quốc Gia (Garde Nationale). Quân Ðội Việt Nam lúc này có qui chế riêng và lương bổng được hưởng tương đối cao hơn phụ lực quân lúc trước. Ba đơn vị chiến đấu đầu tiên được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1949 là các tiểu đoàn bộ binh số 18, 2, và 3, gọi tắt là BVN (Batallion Vietnamien hay Bê Vê En). Lần lượt, các lực lượng quân sự phụ thuộc khác như Cộng Hòa Vệ Binh trong Nam, Bảo Vệ Quân ở miền Trung (sau đổi tên là Việt Binh Ðoàn) và Bảo Chính Ðoàn ở Bắc, v.v. được thuyên chuyển qua hoặc sát nhập vào Quân Ðội Quốc Gia. Còn các lực lượng võ trang của các giáo phái như Cao Ðài, Hòa Hảo, Bình Xuyên tại miền Nam Việt Nam hoặc trở về hợp tác với chánh phủ quốc gia, hoặc rút vào bưng, nhưng sau đó cũng bị tiêu diệt lần hồi. Quân số Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam vào cuối năm 1949 là 45,000 người, không kể các lực lượng còn trong hệ thống quân đội Pháp.<br /><br />QLVNCH trong thập niên 1950<br />Thời kỳ thành lập (1950-1952)<br /><br />Ngày 11 tháng 5 năm 1950, thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố thành lập Quân Ðội Quốc Gia với lập trường chống Cộng, gia tăng quân số lên 60,000 người, do ngân sách quốc gia đài thọ 40%, phần còn lại do Pháp gánh chịu. Viện trợ Mỹ cũng bắt đầu giao thẳng cho các đơn vị Việt Nam, chứ không qua trung gian quân đội Pháp theo chương trình Viện Trợ Hỗ Tương Quốc Phòng MDAP (Mutual Defense Assistance Program). Trưởng phái bộ viện trợ Hoa Kỳ đầu tiên tại Việt Nam là đại tướng O'Daniel. Các quân trường lớn được bắt đầu thành lập trong thời kỳ này gồm có: Trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt, Trường Sĩ Quan Thủ Ðức và Nam Ðịnh. Trường Sĩ Quan Trừ Bị sau này được đổi tên là Trường Bộ Binh Thủ Ðức. Các trung tâm nhập ngũ dùng để huấn luyện binh sĩ quân dịch cũng được thành lập tại Quang Trung (Nam Việt), Phú Bài (Trung Việt) và Quảng Yên (Bắc Việt).<br /><br />Ðến năm 1951, sau khi bị thất bại nặng tại vùng Cao-Bắc-Lạng, Pháp muốn tăng cường Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam để nhận lãnh trách nhiệm bình định và an ninh lãnh thổ. Do đó, tướng De Lattre de Tassigny đã đề nghị thành lập nhiều tiểu đoàn hoàn toàn Việt Nam do các sĩ quan người Việt chỉ huy.<br /><br />Ngày 5 tháng 5 năm 1951, Bộ Quốc Phòng Việt Nam mới thật sự thành hình, với những cơ cấu tổ chức đầu não như Bộ Tổng Tham Mưu, Nha Quân Pháp, Nha Thanh Tra, Tổng Nha Hành Chánh & Quân Lương, Nha Quân Cụ, Nha Quân Y, v.v.<br /><br />Lệnh tổng động viên được ban hành theo dụ số 26, ngày 15 tháng 7 năm 1951, gọi các sinh viên sĩ quan nhập ngũ khóa trừ bị đầu tiên và 60,000 thanh niên thi hành quân dịch. Cuối năm 1951, quân số dưới cờ lên tới 110,000 người. Các đơn vị nòng cốt được thành lập trong thời kỳ này là:<br /><br /> - Tiểu Ðoàn Nhẩy Dù<br /> - Ðại Ðội 1 & 3 Truyền Tin<br /> - Ðệ Nhất (I) Chi Ðoàn Thám Thính Xa<br /> - Tiểu Ðoàn Pháo Binh<br /> - Ðại Ðội 2 & 3 Công Binh <br /><br />Qua năm 1952, để gia tăng nỗ lực chiến tranh, Bộ Tổng Tham Mưu được tách riêng khỏi trụ sở Bộ Quốc Phòng và đặt tổng hành dinh tại tòa nhà lầu góc đại lộ Trần Hưng Ðạo và Trần Bình Trọng (Chợ Quán). Vị tổng tham mưu trưởng đầu tiên là thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh, con trai của thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, nguyên là cựu trung tá Không Quân Pháp.<br /><br />Vào tháng 7 năm 1952, Bộ Chỉ Huy các quân khu được thành lập như sau:<br /><br /> - Ðệ Nhất Quân Khu gồm Nam Việt<br /> - Ðệ Nhị Quân Khu gồm Trung Việt<br /> - Ðệ Tam Quân Khu gồm Bắc Việt <br /><br />Cuối năm 1952, Quân Ðội Quốc Gia có 148,000 người, gồm 95,000 quân chánh qui và 53,000 bảo an địa phương. Các đơn vị gồm có:<br /><br /> - 59 tiểu đoàn bộ binh<br /> - 2 tiểu đoàn nhẩy dù<br /> - 2 tiểu đoàn ngự lâm quân<br /> - 8 tiểu đoàn sơn cước <br /><br />Về cơ giới có:<br /><br /> - 6 chi đoàn thám thính xa<br /> - 1 tiểu đoàn pháo binh và 8 pháo đội biệt lập<br /> - 6 đại đội vận tải<br /> - 6 đại đội truyền tin<br /> - 2 liên đoàn tuần giang <br /><br />Cũng trong thời kỳ này, các quân chủng không quân và hải quân đã bắt đầu đặt nền móng tại Nha Trang, là nơi có thời tiết lý tưởng cho việc huấn luyện. Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân được thành lập vào tháng 4 năm 1952 (sẽ nói rõ hơn trong phần lược sử binh chủng Không Quân và Hải Quân).<br />Thời kỳ phát triển (1953-1954)<br /><br />Theo đà phát triển, kể từ đầu năm 1953 cho tới khi ký kết hiệp định Geneve (ngày 20 tháng 7 năm 1954), có 4 sự kiện sau đây đáng được ghi nhận:<br /><br /> 1. Phát triển các bộ tham mưu, các cơ sở chỉ huy từ trung ương đến các quân khu, tiểu khu theo một hệ thống của quân đội có qui uớc hẳn hoi.<br /><br /> 2. Thành lập thêm Sư Ðoàn 7 Bộ Binh và 54 tiểu đoàn khinh quân để hành quân vùng đồng ruộng thay thế quân đội Pháp.<br /><br /> 3. Thành lập 15 liên đoàn bộ binh và 1 liên đoàn nhẩy dù.<br /><br /> 4. Tiến hành công việc Việt hóa bằng cách chuyển dần các lãnh thổ và công tác hành quân cho người Việt, khởi đầu là các tiểu khu Mỹ Tho (Nam Việt), Hưng Yên, và Bùi Chu (Bắc Việt). <br /><br />Ngày 12 tháng 4 năm 1954, thủ tướng Bửu Lộc ban hành lệnh tổng động viên, ấn định rằng mọi thanh niên Việt Nam sanh từ ngày 1 tháng 1 năm 1929 đến ngày 31 tháng 12 năm 1933 đều phải nhập ngũ. Ngoài ra, mọi thanh niên tuổi từ 18 đến 45 cũng không được phép xuất ngoại trong thời kỳ chiến tranh. Tòa án quân sự được thành lập để xét xử các thanh phần bất phục tòng hay đào ngũ.<br />Thời kỳ độc lập (1954 trở về sau)<br /><br />Sau cuộc ngưng bắn do hiệp ước Geneve ấn định, các đơn vị của Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam đồn trú tại phía bắc vĩ tuyến 17 được lần lượt di chuyển vào Nam kể từ tháng 8 năm 1954. Phần lớn các đơn vị đóng chung quanh Hà Nội và Hải Phòng được đưa vào vùng Ðà Nẵng, Nha Trang, và các tỉnh miền Trung. Các tiểu đoàn Nùng (sơn cước) được đưa vào Cam Ranh để sau này thành lập sư đoàn Nùng tại sông Mao do đại tá Wòng A Sáng chỉ huy. Bộ Tư Lệnh Ðệ Tam Quân Khu dời vào Nha Trang. Riêng các trung tâm huấn luyện Hà Nội và Quảng Yên được sát nhập vào Trung Tâm Quán Tre thuộc tỉnh Gia Ðịnh.<br /><br />Cũng trong thời gian này, các lực lượng võ trang giáo phái như Cao Ðài, Hoà Hảo, được sát nhập vào Quân Ðội Quốc Gia để thành lập một quân lực có sự chỉ huy thống nhất trên toàn quốc. Riêng có một nhóm Hòa Hảo ly khai chừng vài ngàn người, dưới quyền chỉ huy của trung tướng Lê Quang Vinh, tức Ba Cụt, rút vào Cao Miên để chống lại chính phủ.<br /><br />Ngày 26 tháng 10 năm 1955, khi cử hành lễ đăng quan của tổng thống Ngô Ðình Diệm và cũng là ngày khai sinh nền Ðệ Nhất Cộng Hòa. Quân Ðội Quốc Gia được đổi tên là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Lúc đó, quân số hiện diện dưới cờ là 167,000 người.<br />Thời kỳ hiện đại hóa (1961-1975)<br /><br />Kể từ lúc mang danh xưng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH), quân đội là lực lượng nồng cốt bảo vệ an ninh và bình định lãnh thỗ miền Nam từ vĩ tuyến 17 cho đến mũi Cà Mau. Trong thời kỳ này, quân lực Việt Nam chú trọng đến việc gia tăng khả năng tác chién, đặt vấn đề huấn luyện lên hàng đầu. Nhiều đợt sĩ quan Hải Lục Không quân được gởi đi tu nghiệp tại ngoại quốc, nhất là tại Hoa Kỳ để chuẩn bị cho việc hiện đại hóa quân đội.<br /><br />Lúc này, người Mỹ cũng đã có mặt khá đông đảo tại miền Nam và viện trợ quân sự Mỹ có tầm quan trọng đặc biệt, nếu không muốn nói là quyết định trong vấn đề hiện đại hóa. Phái bộ cố vấn quân sự Hoa Kỳ (Military Assistance & Advisory Group, gọi tắt là MAAG) được đổi thành MAC-V và đặt dưới quyền điều khiển của tướng 4 sao William Wesmoreland.<br /><br />Về bộ binh, bảng cấp số được tăng lên đến 11 sư đoàn bộ binh, một lực lượng tổng trừ bị gồm Sư Ðoàn Dù và Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC). Ngoài ra, còn có nhiều Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân (BÐQ) được đặt dưới quyền xử dụng của các quân khu.<br /><br />Riêng các quân chủng Không Quân và Hải Quân cũng được bành trướng tối đa trong thời kỳ này. Ðây là giai đoạn chuyển mình của QLVNCH, biết đổi từ một lực lượng phụ thuộc vào lực lượng viễn chinh Pháp, để trở thành một quân đội hiện đại và được trang bị tối tân nhất vùng Ðông Nam Á.<br /><br />Vì thời kỳ này là giai đoạn rất quan trọng trong lịch sử hình thành QLVNCH, chúng tôi sẽ lược duyệt lý do và đi sâu vào chi tiết tiến trình hiện đại hóa của những quân binh chủng quan trọng nòng cốt trong quân lực.<br /><br />Trong những năm từ 1961 đến 1975, Cộng Sản Bắc Việt đã công khai xua quân xâm chiếm miền Nam. Nấp dưới tấm bình phong giả tạo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN), hàng sư đoàn quân chính qui cộng sản dùng đường mòn Hồ Chí Minh vượt vĩ tuyến 17 vào Nam. Những sư đoàn này được trang bị bằng đủ loại vũ khí tối tân với chiến xa và đại pháo yểm trợ. Nhưng dù ở thế bị động, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã giáng cho bọn cộng sản xâm lược những đòn quyết liệt, điển hình là trận thảm bại trong cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân vào 1968.<br /><br />Tuy nhiên sau khi đã dùng chính sách "ngoại giao bóng bàn" để bắt tay được với Trung Cộng, và cũng vì bị dân chúng phản đối dữ dội, chính phủ Nixon chuẩn bị kế hoạch rút quân đội Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Chương trình này được gọi là "Việt hóa cuộc chiến" (Vietnamization).<br /><br />Nguồn gốc của danh từ "Việt hóa" chỉ là một sự ngẫu nhiên. Nguyên vào khoảng tháng 3 năm 1971, lúc tổng thống Nixon mới đắc cử, tướng Andrew Goodpaster lúc đó là phụ tá của tướng Abrams (tướng Abrams là tổng tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam) có tham dự một buổi thuyết trình của Hội Ðồng An Ninh Hoa Kỳ. Trong buổi thuyết trình, tướng Goodpaster loan báo rằng Quân Lực VNCH bây giờ đã đủ mạnh, đến độ Hoa Kỳ có thể "không cần Mỹ hóa" (de-Americanizing) cuộc chiến tại Việt Nam nữa. Lúc đó, tổng trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Melvin Laird, một nhà chính trị già đời, cho rằng nếu nói "không còn Mỹ hóa" tức là gián tiếp công nhận trước đây Hoa Kỳ đã biến chiến tranh Việt Nam thành chiến tranh xâm lược giữa đế quốc Mỹ và nhân dân Việt Nam. Như vậy sẽ rơi vào chiêu bài "chống Mỹ cứu nước" của Cộng Sản. Bộ trưởng Laird đề nghị chỉ nên dùng một danh từ nào đó gián tiếp có ý nghĩa là Hoa Kỳ sẽ rút chân khỏi Việt Nam, nhưng tránh không đả động gì tới vấn đề Mỹ hóa. Thí dụ như thay vì nói "de-Americanizing" chẳng hạn. Tổng thống Nixon, cùng là một con cáo già chính trị, lập tức đồng ý: "Bộ trưởng Laird nói có lý." Thế là danh từ "Việt hóa" (Vietnamization) được ra đời trong tự điển Hoa Kỳ.<br /><br />Thực tế, quân đội Hoa Kỳ tuy đã muốn rút chân khỏi Việt Nam, tức là không còn tham chiến nữa, nhưng lại không muốn bị mất mặt vì đã bỏ rơi đồng minh và bị bọn cộng sản của một tiểu quốc đánh bại. Vì danh từ "de-Americanizing" bao hàm ý nghĩa Hoa Kỳ tháo chạy và bỏ rơi đồng minh, nên danh từ "Việt hóa" được xử dụng. Thật ra, Việt hóa tức là chuyển gánh nặng quân sự sang cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa, như vậy quân đội Hoa Kỳ sẽ không còn phải tham chiến nữa, tức là "không Mỹ hóa" vậy.<br /><br />Chương trình "Việt hóa" hay hiện đại hóa QLVNCH được chia ra làm 3 giai đoạn chính:<br /><br /> Giai đoạn 1: Huấn luyện và trang bị QLVNCH để chuyển giao dần trách nhiệm bộ chiến.<br /> Giai đoạn 2: Phát triển khả năng yểm trợ của QLVNCH.<br /> Giai đoạn 3: Các quân nhân Hoa Kỳ nếu còn lại ở Việt Nam, sẽ chỉ giữ vai trò cố vấn. <br /><br />Tuy mãi đến khoảng đầu thập niên 1970 vấn đề Việt hóa, tức là giao trọng trách trên chiến trường cho QLVNCH, mới được đề cập tới, nhưng trên thực tế, trước khi có chương trình này, QLVNCH cũng đã đảm đương phần lớn gánh nặng của chiến cuộc. Tuy quân lực Hoa Kỳ có tham dự những trận đánh lớn với cộng quân, nhưng các lực lượng QLVNCH đã luôn luôn đụng độ với địch nhiều hơn, và thiệt hại bao giờ cũng cao hơn lực lượng đồng minh.<br /><br />Mặc dù có nhiều ý kiến chống đối tại Việt Nam cũng như tại Hoa Kỳ, công cuộc "Việt hóa" được tiến triển rất nhanh qua kế hoạch "Hiện Ðại Hóa QLVNCH" (gọi tắt là CRIMP - Consolidated RVNAF Improvement and Modernization Program). Tính đến năm 1972, Hoa Kỳ đã chuyển giao cho QLVNCH:<br /><br />- Trên 800,000 vũ khí cá nhân và cộng đồng.<br />- Khoảng 2,000 chiến xa và đại bác.<br />- Khoảng 44,000 máy truyền tin.<br /><br />So với năm 1968, QLVNCH có khoảng 700,00, vào cuối năm 1971 tăng lên trên 1 triệu người. Như vậy, QLVNCH đã được canh tân và cải tiến trong đầu thập niên 1970 để có thể thay thế quân đội Hoa Kỳ trên chiến trường miền Nam. Sau đây, chúng tôi sẽ đi sâu vào thời kỳ hiện đại hóa rất quan trọng của từng quân chủng: Lục Quân, Không Quân, và Hải Quân.<br /><br />Ðể giúp quý độc giả, nhất là những bạn trẻ không có dịp chiến đấu trong QLVNCH, dễ dàng nắm vững được những phần nồng cốt trong bài biên khảo này, chúng tôi xin mạn phép được đề câp sơ qua về cơ cấu tổ chức của QLVNCH.<br /><br />Tổng quát, Quân Lực VNCH được phân chia làm 3 quân chủng: Hải Quân, Không Quân, và Lục Quân, thường được gọi tắt là Hải, Lục, Không Quân. Cũng như đa số các quân đội trên thế giới, Lục Quân bao giờ cũng phải đảm đương phần lớn trách nhiệm trong các cuộc chiến, nên quân chủng này quan trọng nhất và có đông quân nhất.<br /><br />Theo định nghĩa khái quát, Lục Quân gồm các quân nhân đánh giặc "trên mặt đất". Không Quân dùng phi cơ để bay trên trời, và Hải Quân xử dụng các chiến hạm chiến đĩnh trên sông ngòi hay biển cả. Có nhiều người thường xử dụng lẫn lộn danh từ "quân chủng" và "binh chủng", thí dụ như "binh chủng" Không Quân, "binh chủng" Hải Quân"... Ðiều này cũng không lấy gì làm lạ, vì "quân" hay "binh" cũng đều là lính cả! Tuy nhiên, nếu phân biệt rõ ràng, một binh chủng chỉ là thành phần của một quân chủng, cũng như tiểu đoàn là thành phần của một trung đoàn. Lục Quân là một quân chủng lớn với gần nửa triệu quân dưới cờ, nên được chia thành nhiều binh chủng như: Bộ Binh, Công Binh, Pháo Binh, Thiết Giáp Binh, v.v. Còn hai Quân Chủng Không Quân và Hải Quân không được chia thành những binh chủng riêng biệt. Nếu chỉ kể riêng về quân số, binh chủng Bộ Binh còn đông hơn cả quân chủng Không Quân và Hải Quân hợp lại.<br /><br />Ðối với các binh chủng đặt biệt như Nhẩy Dù hay Thủy Quân Lục Chiến, tuy có dùng chiếm hạm của Hải Quân hay phi cơ của Không Quân khi đi hành quân, nhưng đều được kể là những binh chủng của Lục Quân.<br />Nhìn chung, Lục Quân được gia tăng lên đến 450,000 người, chia ra 13 sư đoàn, gồm 171 tiểu đoàn lưu động được phối trí như sau: Sư Ðoàn 1, 2, và 3 trấn đóng tại Vùng 1 Chiến Thuật. Sư Ðoàn 22 và 23 trấn đóng tại vùng 2 Chiến Thuật. Sư Ðoàn 5, 18, và 25 trấn đóng tại Vùng 3 Chiến Thuật. Sư Ðoàn 7, 9, và 21 trấn đóng tại Vùng 4 Chiến Thuật.<br /><br />Ngoài ra, còn có hai sư đoàn tổng trừ bị là Sư Ðoàn Dù và Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến. Bốn mươi lăm (45) tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân được chia ra thành những liên đoàn đặt trực thuộc các Vùng Chiến Thuật. Năm mươi tám (58) tiểu đoàn Pháo Binh. Trong số những tiểu đoàn này, chỉ có mỗi một tiểu đoàn được trang bị đại bác 175 ly có tầm bắc xa tương đương với đại bác 130 ly của cộng quân. Các đại bác khác đều thuộc loại 105 ly hay 155 ly có tầm bắc ngắn hơn đại pháo của địch tới mươi cây số. Mười chính (19) thiết đoàn Kỵ Binh.<br /><br />Lực lượng Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân tại các tiểu khu và chi khu cũng gia tăng đáng kể, lên đến 550,000 người vào năm 1972. Quan trọng hơn nữa, lực lượng này được trang bị vũ khí tối tân M-16 và M-60 để thay thế các vũ khí lỗi thời như M-1 và trung liên BAR. Lục Quân có Lục Quân Công Xưởng tại Gò Vấp để sửa chữa và bảo trì những chiến cụ nặng như chiến xa và đại bác, v.v.<br />Binh Chủng Thiết Giáp<br /><br />Vào năm 1950, người Pháp thành lập một đơn vị Thám Thính Xa cho Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam. Ðến khi đất nước bị chia đôi vào năm 1954, binh chủng Thiết Giáp gồm Lữ Ðoàn 3 Thiết Giáp và 4 thiết đoàn biệt lập. Cho tới đầu năm 1955, Bổ Chỉ Huy Thiết Giáp Binh mới được chính thức thành lập cùng với nền đệ nhất Cộng Hòa.<br /><br />Những chiến xa đầu tiên của binh chủng Thiết Giáp đều thuộc loại M-24 Chaffees nhẹ, thiết xa M8 loại nửa bánh nửa xích. Vào năm 1956, Thiết Giáp Binh được tổ chức theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ, gồm những thiết đoàn kỵ binh, mỗi thiết đoàn gồm 2 chi đoàn trang bị chiến xa M-8, M-3, và M-24.<br /><br />Trong thời gian từ 1957 đến 1962, Thiết Giáp Binh chỉ giữ một vai trò khiêm nhường trên chiến trường miền Nam vì các nhà quân sự cho rằng Việt Nam với nhiều rừng rú và sông rạch ruộng vườn lầy lội, không phải là chiến trường thích hợp cho chiến xa di chuyển. Tuy nhiên, cùng với sự sôi động của chiến trường, những thiết vận xa hay thiết quân vận M-113 được mang ra xử dụng thành công trong các cuộc hành quân tại Vùng 4. Sau đó, các thiết quân vận M-113 được trang bị hỏa lực mạnh hơn và lá chắn để trở thành một loại "chiến xa" đa dụng của Thiết Giáp Binh (xin phân biệt chiến xa hay xe tăng có nhiệm vụ chính là dùng hỏa lực tiêu diệt địch quân, còn thiết quân vận có mục đích nguyên thủy là dùng để chở quân đổ vào mục tiêu). Ðến năm 1964, các chiến xa Chaffees cũ kỹ được thay thế bằng loại M-41A3 "Walker Bulldog" tối tân hơn. Chiến xa M-41 chẳng bao lâu đã trở thành xương sống của Thiết Giáp Binh với 5 chi đoàn và rất được các chiến sĩ mũ đen ưa chuộng. Loại này tuy bị coi là nhỏ bé chật chội đối với người tây phương cồng kềnh, nhưng đối với người Việt Nam nhỏ tác thì lại rất vừa vặn và hữu hiệu.<br /><br />Vào những năm cuối cùng của cuộc chiến, khi Cộng Sản Bắc Việt dùng các loại chiến xa T-54 và PT-76 để yểm trợ cho bộ binh xung trận, Thiết Giáp Binh QLVNCH lại được canh tân qua chương trình Việt Nam hóa với các chiến xa tối tân hơn như M-48 có máy nhắm bằng Xenon. Trong các cuộc hành quân lớn như vượt biên qua Cam Bốt năm 1970, Hạ Lào năm 1971, và trận chiến Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 1972, các chiến xa của ta đã tỏ ra trội vượt so với thiết giáp của đối phương và gây cho chúng những thiệt hại nặng nề. Riêng trong trận xa chiến đầu tiên với chiến xa cộng sản tại Hạ Lào vào năm 1971, các chiến xa M-41 của Lữ Ðoàn 1 Thiết Kỵ (do đại tá Nguyễn Trọng Luật chỉ huy) đã bắn hạ 6 chiến xa T-54 và 16 PT-76 của địch mà không bị một tổn thất nào.<br /><br />Vị tư lệnh cuối cùng của binh chủng Thiết Giáp là chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp.<br />Binh Chủng Pháo Binh<br /><br />Pháo binh Việt Nam xuất hiện trên chiến trường vào cuối năm 1951 với các đơn vị đầu tiên được gọi là Pháo Ðội Biệt Lập (Batterie de tir autonome). Sau đó, vào các năm 1952-1953, các pháo đội này được tập trung thành các tiểu đoàn pháo binh (Group d'artillerie). Các tiểu đoàn pháo binh Việt Nam, Pháo gọi là GAVN, gồm 3 pháo đội với 12 khẩu đại bác 105 ly. Sau đây là danh sách các tiểu đoàn pháo binh đầu tiên với ngày thành lập:<br /><br />- Tiểu Ðoàn 3 Pháo Binh, thành lập ngày 1 tháng 11 năm 1952 tại Bắc Việt.<br /><br />- Tiểu Ðoàn 2 Pháo Binh, thành lập ngày 1 tháng 3 năm 1953 tại Trung Việt.<br /><br />- Tiểu Ðoàn 4 Pháo Binh, thành lập ngày 1 tháng 3 năm 1953 tại Cao Nguyên.<br /><br />- Tiểu Ðoàn 1 Pháo Binh, thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1953 tại Nam Việt.<br /><br />Tuy được thành lập đã lâu, nhưng mãi tới tháng 10 năm 1954, các sĩ quan pháo binh Việt Nam mới đảm nhiệm chức vụ tiểu đoàn trưởng. Và mãi đến tháng 3 năm 1955, binh chủng Pháo Binh mới có vị chỉ huy trưởng đầu tiên. Một trong những vị chỉ huy trưởng lúc ban đầu rất nổi tiếng của Pháo Binh là tướng Nguyễn Ðức Thắng.<br /><br />Về sau, cùng với sự bành trướng của QLVNCH, binh chủng Pháo Binh cũng gia tăng nhanh chóng với các đơn vị pháo binh diện địa và di động đi theo các sư đoàn tổng trừ bị Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Vào năm 1972, khi chương trình hiện đại hoá QLVCH lên tới cao độ, có tới 58 tiểu đoàn Pháo Binh đồn trú khắp nơi trên các vùng Chiến Thuật.<br /><br />Pháo Binh, cùng với Không Quân và Hải Quân, được coi như là những vị cứu tinh của các tiền đồn bị cô lập hay các đơn vị bộ binh đang chạm địch. Với những khẩu đội pháo bắn tập trung và tiêu diệt, lợi điểm của Pháo Binh là có thể tác xạ yểm trợ lâu dài và hữu hiệu dưới mọi thời tiết.<br /><br />Nhưng rất tiếc khi chiến cuộc Việt Nam gần tàn vào những năm 1973-1974, khả năng hoạt động của Pháo Binh không còn được hữu hiệu như trước vì tình trạng đạn dược bị hạn chế. Hơn nữa, cả binh chủng Pháo Binh chỉ có một tiểu đoàn được trang bị đại pháo 175 ly có tầm bắn tương đương với trọng pháo 130 ly của địch quân lúc đó đang đầy rẫy khắp chiến trường. Ða số đại bác của ta là loại 105 ly và 155 ly với tầm bắn ngắn hơn trọng pháo của địch. Do đó, địch có thể pháo kích những căn cứ hỏa lực hay nơi đặt pháo mà ta không phản pháo được vì ngoài tầm tác xạ.<br />Ðoàn Nữ Quân Nhân<br /><br />Thiết tưởng khi đề cập đến lịch sử của QLVNCH mà không nhắc đến Ðoàn Nữ Quân Nhân, có thể là một thiếu sót đáng trách. Những "đóa hoa nở trên đầu súng" này, tuy không trực tiếp xông pha nơi tuyến đầu, nhưng cũng đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng đại gia đình quân đội.<br /><br />Vào lúc cuộc chiến giữa hai phe Quốc Gia và Cộng Sản đang thời sôi động nhất, khi "lời sông núi giục vang bốn phương trời," đã có khá đông phụ nữa đi theo bước chân "Triệu Trưng xưa đẹp gương sáng muôn đời," gia nhập quân ngũ để đảm nhiệm những công tác xã hội.<br /><br />Sở xã hội được thành lập vào tháng 7 năm 1952 với khóa huấn luyện Nữ Trợ Tá đầu tiên được tổ chức vào ngày 21 tháng 8 năm 1952 tại trường Hồng Thập Tự Pháp. Từ đó, bóng dáng người phụ nữ Việt Nam trong quân phục đã trở thành khá quen thuộc trong một tập thể trước đây được coi là độc quyền của nam giới. Ðoàn Nữ Quân Nhân được chia làm hai thành phần chính: Nữ Phụ Tá (Personnel Auxilliaire Feminin, gọi tắt là PAF) đảm nhiệm những công tác văn phòng để nam quân nhân có thể cầm súng ra trận. Nữ Trợ Tá Xã Hội (Assistance Sociale hay Auxiliaire Sociale) chuyên lo công tác xã hội như cứu trợ gia đình hay săn sóc thương bệnh binh.<br /><br />Sở Xã Hội khi mới thành lập do phu nhân của thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh là một người Pháp điều khiển. Ðến tháng 4 năm 1954, Sở Xã Hội được mở rộng thành Nha Xã Hội và Văn Hóa. Về sau này, các Nữ Trợ Tá trở thành các Nữ Quân Nhân có mặt hầu hết trong các Quân Binh Chủng. Trong binh chủng Nhẩy Dù, thoạt đầu các Nữ Quân Nhân đảm trách việc xếp dù, sau đó họ học nhẩy dù và thành lập một toán Nữ Quân Nhân chuyên biểu diễn nhẩy dù rất thành thạo và ngoạn mục.<br /><br />Ðoàn Nữ Quân Nhân QLVNCH có nhiều cấp chỉ huy rất nổi tiếng như bà trung tá Vẽ, bà trung tá Hương, bà thiếu tá Hằng. Trường Nữ Quân Nhân sau này được thiết lập tại Phú Thọ. Khi tham dự các cuộc diễn binh hay lễ lớn, đoàn Nữ Quân Nhân thường diễn hành rất hùng dũng và nhịp nhàng, luôn luôn được hoan hô và tán thưởng nhiều nhất.<br /><br />.<br /><br />Quân Chủng Không Quân<br /><br />Quân chủng Không Quân Việt Nam (KQVN) được thành lập bởi Dụ Số 9 ngày 25 tháng 6 năm 1951, nhưng mãi tới tháng 6 năm 1952 mới bắt đầu chính thức hoạt động tại Nha Trang, nơi được xem như là cái nôi của Không Quân.<br /><br />Thoạt tiên, KQVN được nảy sinh ra từ lực lượng Không Quân Viễn Ðông Pháp (Forces Aeriennes en Extreme Orient), bắt đầu từ một trung tâm huấn luyện đặt tại bờ biển Nha Trang để huấn luyện phi công và quan sát viên trên phi cơ Morane 500 (máy bay Bà Già!). Lúc đầu, hầu hết các hoa tiêu và cơ khí viên đều được gửi đi thụ huấn tại các trường Không Quân ở Pháp và Bắc Phi Châu như Salon, Fes, Marrakech, Rochefort. Quân số Không Quân lúc thành lập chỉ độ 3,000 người.<br /><br />Bước sang năm 1961, vì nhu cầu chiến trường gia tăng để chống lại các cuộc tấn công của Cộng Sản, Không Quân Việt Nam được trang bị một cách tích cực bằng những loại phi cơ tối tân hơn và quân số đã gia tăng gấp 10 lần so với lúc thành lập. Nhiều phi trường cũng được cải tiến để tiếp nhận các oanh tạc cơ hạng nặng. Phi đạo tại các phi trường lớn như Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Ðà Nẵng được nối dài thành 10,000 bộ để trở thành phi trường quốc tế hạng A.<br /><br />Trong đợt đầu, vào năm 1962, KQVN đã có những phi đoàn sau đây: Phi Ðoàn Khu Trục trang bị phi cơ A-1H đồn trú tại Ðà Nẵng, Biên Hòa, và Bình Thủy. Ba (3) phi đoàn vận tải cơ C-47 cùng 2 phi đoàn C-119 và C-123 đồn trú tại Tân Sơn Nhất. Năm (5) phi đoàn Quan Sát. Ba (3) phi đoàn Trực Thăng. Và nhiều phi đoàn cho những phi vụ đặc biệt.<br /><br />Sau này, các phi cơ cánh quạt được thay thế bằng phi cơ phản lực tối tân, cùng hàng trăm phi cơ trực thăng UH-1H và Chinook CH-47. Vào tháng 7 năm 1964, Phi Ðoàn Khu Trục 524 tại Nha Trang là phi đoàn đầu tiên tiếp nhận phi cơ A-37, là loại chiến đấu phản lực 2 động cơ, đánh dấu KQVN tiến thêm một bước nữa vào "thời đại phản lực." Trong những năm kế tiếp, căn cứ Không Quân Biên Hòa thành lập thêm 3 phi đoàn chiến đấu cơ siêu thanh (supersonic fighter) F-5, là một trong những loại hiện đại nhất vào thời điểm này. Về ngành vận tải, Sư Ðoàn 5 Không Quân tại Tân Sơn Nhất cũng được trang bị thêm 2 phi đoàn vận tải bán phản lực với loại phi cơ C-130 Hercules.<br /><br />Ðể bảo trì và sửa chữa các loại phi cơ, một Không Quân Công Xưởng cũng được thiết lập tại Biên Hòa. Không Quân Công Xưởng này được trang bị rất tối tân với những chuyên viên bảo trì thuộc vào hàng giỏi nhất vùng Ðông Nam Á.<br /><br />Vào lúc cao điểm của chiến tranh Việt Nam, Không Lực Việt Nam có quân số lên đến 60,000 người với khoảng 1,860 phi cơ kể cả trực thăng. Không Quân Việt Nam đã có lúc được coi là hùng hậu nhất Ðông Nam Á và đứng vào hàng thứ tư trên thế giới, được tổ chức thành 6 Sư Ðoàn Không Quân Chiến Thuật, phối trí như sau: Sư Ðoàn 1 Không Quân: Vùng 1 Chiến Thuật. Sư Ðoàn 2 và Sư Ðoàn 6 Không Quân: Vùng 2 Chiến Thuật. Sư Ðoàn 3 và Sư Ðoàn 5 Không Quân: Vùng 3 Chiến Thuật. Sư Ðoàn 4 Không Quân: Vùng 4 Chiến Thuật.<br /><br />.<br /><br />Quân Chủng Hải Quân<br /><br />Vào khoảng đầu năm 1951, tuy Hải Quân Việt Nam chưa chính thức ra đời, nhưng đã có nhiều Liên Ðoàn Tuần Giang (tiếng Pháp gọi là Garde Auxiliaire Escadrille Fluviale, gọi tắt là GAEF) được thành lập để đáp ứng như cầu hành quân trên sông ngòi toàn lãnh thổ Việt Nam. Các Liên Ðoàn Tuần Giang (LÐTG) này được phân phối như sau:<br /><br />LÐTG số 1, đồn trú tại Sài Gòn, gồm có 4 Ðoàn Tuần Giang (ÐTG):<br /><br /> ÐTG 1 đóng tại Cần Thơ.<br /> ÐTG 2 đóng tại Mỹ Tho.<br /> ÐTG 3 đóng tại Vĩng Long.<br /> ÐTG 4 đóng tại Sài Gòn. <br /><br />- LÐTG số 2, đồn rú tại Huế, chỉ có một ÐTG độc nhất cũng đóng tại Huế.<br /><br />- LÐTG số 3, đồn trú tại Hà Nội, gồm có 3 ÐTG:<br /><br /> ÐTG 1 đóng tại Hà Nội.<br /> ÐTG 2 đóng tại Hải Phòng.<br /> ÐTG 3 đóng tại Nam Ðịnh. <br /><br />Trên lý thuyết, mỗi Bộ Chỉ Huy LÐTG gồm 2 sĩ quan, 2 hạ sĩ quan, 9 binh sĩ, và có một tàu chỉ huy. Mỗi ÐTG có 1 sĩ quan, 15 hạ sĩ quan, 76 binh sĩ, và 6 tầu Vedettes. Tuy nhiên, quân số và chiến đĩnh thuộc mỗi ÐTG được du di tùy theo nhu cầu chiến trường. Quân số tổng cộng của các LÐTG là 920 người. Vì lúc đó Hải Quân chưa được thành lập nên những LÐTG được đặt dưới quyền của Vệ Binh Quốc Gia (GA). Có thể nói những LÐTG là thủy tổ của Hải Quân Việt Nam lúc chưa thành hình.<br /><br />Tưởng cũng nên nhắc lại vào thời gian đó cũng có những đại đội Commando chuyên đánh thủy như các đại đội Ouragan, Tempete, Jaubert, Montfort. Ta cũng có thể nói những đại đội "lính bộ đánh thủy" này là tiền thân của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến sau này.<br /><br /><br />Trước đó, vào năm 1950, đã có một số thanh niên Việt Nam được gửi sang Pháp thụ huấn các khóa ngắn hạn tại trường Hải Quân Brest. Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân (TTHLHQ) Nha Trang được khởi công xây cất vào tháng 11 năm 1951. Sau đây là những thơi điểm chính trong lịch sử hình thành Hải Quân Việt Nam (HQVN).<br /><br />- Ngày 6 tháng 3 năm 1952: Hải Quân Việt Nam được chính thức thành lâp bởi Dụ Số 2.<br />- Ngày 20 tháng 5 năm 1952: Thành lập Bộ Tư Lệnh HQVN.<br />- Ngày 12 tháng 7 năm 1952: Khánh thành TTHLHQ. Ðô đốc Ortoli (Pháp) chủ tọa.<br />- Tháng 9 năm 1952: Khóa 1 SQHQ Nha Trang ra trường, gồm 9 sĩ quan.<br />- Tháng 10 năm 1952: sáu người được tuyển chọn đi học khóa SQHQ tại Brest (Pháp).<br /><br />- Ðầu năm 1953: Hai đoàn tiểu đĩnh được biến cải thành hai Hải Ðoàn Xung Phong đầu tiên đóng tại Cần Thơ và Vĩnh Long. Hải Ðoàn Xung Phong Cần Thơ là đơn vị Hải Quân đầu tiên có chiến đĩnh mang quốc kỳ Việt Nam trên kỳ đài. Mãi đến đầu năm 1954, một Hải Ðoàn Xung Phong thứ ba mới được thành lập để tham chiến tại vùng trung châu Bắc Việt.<br /><br />Tháng 4 năm 1953: Pháp chuyển giao cho HQVN một Giang Pháo Hạm (Landing Ship Infantry Large, gọi tắt là LSIL). Chiến hạm này vẫn mang cờ Pháp.<br /><br />- Ðầu năm 1954: Quân số HQVN gồm có 22 sĩ quan và 984 hạ sĩ quan và đoàn viên.<br /><br />- Ngày 30 tháng 6 năm 1955, thủ tướng Ngô Ðình Diệm chỉ định tướng Trần Văn Ðôn chỉ huy HQVN. Như vậy, tuy đã chuyển gia một số đơn vị cho HQVN, sĩ quan Pháp vẫn tiếp tục chỉ huy HQVN cho đến đầu năm 1955.<br /><br />- Vào năm 1950 đã có 8 sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ trong phái bộ MAAG (Military Assistance Advisory Group) nhưng mãi đến năm 1954 mới có cố vấn Hoa Kỳ trong Hải Quân Việt Nam.<br /><br />- Ngày 20 tháng 8 năm 1955: Quân đội Pháp chính thức chuyển giao quân chủng Hải Quân cho QLVNCH (cùng ngày với Không Quân). Hải Quân Thiếu Tá Lê Quang Mỹ được thủ tướng Ngô Ðình Diệm bổ nhiệm chức vụ Tư Lệnh Hải Quân đầu tiên (kiêm tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến).<br /><br />- Ngày 7 tháng 11 năm 1955: Pháp chuyển giao TTHL/HQ Nha Trang cho HQVN. Tính cho đến cuối năm 1955, Pháp đã chuyển giao cho HQVN những đơn vị sau đây:<br /><br /> -- 4 Hải Ðoàn Xung Phong: HDXP 21 đóng tại Mỹ Tho, 23 đóng tại Vĩnh Long, 24 đóng tại Sài Gòn, 25 đóng tại Cần Thơ.<br /><br /> -- 3 căn cứ Hải Quân: Sài Gòn, Cát Lái, và Ðà Nẵng.<br /><br /> -- 4 đồn Hải Quân tại Mỹ Tho, Cần Thơ, Vĩnh Long, và Long Xuyên.<br /><br /> -- Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang.<br /><br /> -- Hải Quân Công Xưởng Sài Gòn (Ba Son).<br /><br /> -- Kho đạn Thành Tuy Hạ. <br /><br />Lúc đó, HDXP 22 đã được thành lập và di chuyển từ miền Bắc vào, nhưng giang đĩnh bị thiệt hại khá nặng nên phải giải tán và sát nhập vào HDXP 21.<br /><br />- Tháng 7 năm 1955: Bảng cấp số lý thuyết của Hải Quân được chấp thuận, tăng quân số lên 4,250 người. Lúc đó, quân số Hải Quân đã có 3,858 người phân chia như sau:<br /><br /> -- Hải Quân chính thức: 2,567 người gồm 190 sĩ quan, 2,377 hạ sĩ quan và đoàn viên.<br /><br /> -- Thủy Quân Lục Chiến: 1,291 người, gồm 43 sĩ quan, 257 hạ sĩ quan và 991 binh sĩ. <br /><br />Sau khi được chuyển giao, HQVN chia thành ba lực lượng chính sau đây:<br /><br />1. Hải Trấn: Gồm 4 Duyên Khu (Phú Quốc, Nha Trang, Vũng Tầu, Ðà Nẵng). TTHL/HQ Nha Trang và ba Thủy Xưởng (miền đông: Sài Gòn, miền tây: Cần Thơ, miền trung: Ðà Nẵng).<br /><br />2. Hải Lực: Gồm có các chiến hạm tuần tiễu hay yểm trợ ven biển:<br /><br /> - 5 tuần duyên hạm (PC - Patrol Craft): HQ 01 Chi Lăng, HQ 02 Vạn Kiếp, HQ 04 Tụy Ðộng, HQ 05 Tây Kết, HQ 06 Vân Ðồn.<br /><br /> - 3 trục lôi hạm (YMS - Yatch Mine Sweeper - tàu rà mìn): HQ 111 Hàm Tử, HQ 112 Chương Dương, HQ 113 Bạch Ðằng.<br /><br /> - 2 Trợ Chiến Hạm (LSSL - Landing Ship Support Large): HQ 225 Nỏ Thần, HQ 226 Linh Kiếm.<br /><br /> - 5 Giang Pháo Hạm (LSIL - Landing Ship Infantry Large): HQ 327 Long Ðao, HQ 328 Thần Tiễn, HQ 329 Thiên Kích, HQ 330 Lôi Công, HQ 331 Tầm Sét.<br /><br /> - 4 Hải Vận Hạm (LSM - Landing Ship Medium): HQ 400 Hát Giang, HQ 401 Hàn Giang, HQ 402 Lam Giang, HQ 403 Ninh Giang. <br /><br />3. Giang Lực: gồm một số tầu trục vớt trong sông và quân vận đĩnh (LCU - Landing Craft Utility) và năm Hải Ðoàn Xung Phong được phân phối như sau:<br /><br /> - HDXP 21 đóng tại Mỹ Tho.<br /> - HDXP 23 đóng tại Vĩnh Long.<br /> - HDXP 24 đóng tại Sài Gòn.<br /> - HDXP 25 đóng tại Cần Thơ.<br /> - HDXP 26 đóng tại Long Xuyên. <br /><br />(Lúc đó vì HDXP 22 bị thiệt hại nặng ngoài Bắc Việt, nên khi di chuyển vào Nam được sát nhập vào HDXP 21).<br /><br />Tháng 5 năm 1957: Các sĩ quan HQ Pháp cuối cùng rời khỏi TTHL/HQ Nha Trang. SQHQ Việt Nam hoàn toàn đảm trách việc huấn luyện.<br /><br />Năm 1958: Khóa 8 Ðệ Nhất Hổ Cáp là khóa SVSQ/HQ đầu tiên được chính SQ Hải Quân VN tuyển mộ và huấn luyện.<br /><br />Trong khoảng 10 năm từ 1958 tới 1968, Hải Quân Việt Nam tiếp tục bành trướng mạnh mẽ, cả về quân số lẫn chiến hạm. Nhiều nhân viên được gửi đi thụ huấn tại ngoại quốc và Hoa Kỳ cũng chuyển giao nhiều chiến hạm. Vào tháng 11 năm 1969, trong khuôn khổ kế hoạch "Việt Hóa Cuộc Chiến" (Vietnamization) và "Chuyển Giao Cấp Tốc" (Accelerated Turn Over to the Vietnamese - ACTOV), chỉ trong một thời gian ngắn, HQVN nhận được trên 500 chiếnhạm và chiến đỉnh đủ loại. Cho tới tháng 4 năm 1975, quân số của Hải Quân lên đến gần 43,000 người với khoảng 1,600 chiến hạm và chiến đỉnh đủ loại.<br /><br />Tưởng cũng nên nhắc nhở là Hải Quân Công Xưởng (còn được gọi là Sở Ba Son) là môt thủy xưởng được thiết lập ngay trên bờ sông Sài Gòn từ thế kỷ thứ 19, trên một khu đất rộng chừng 53 mẫu tây. Thủy xưởng này có nhiều ụ nổi đủ sức tân trang và đại kỳ những chiến hạm cỡ lớn.<br /><br />Các đại đơn vị thuộc quân chủng Hải Quân được tổ chức như sau.<br /><br />Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sông, gồm có:<br /><br />1. Vùng III Sông Ngòi đóng tại Sài Gòn, chỉ huy các Giang Ðoàn Xung Phong.<br /><br />2. Vùng IV Sông Ngòi đóng tại Cần Thơ, chỉ huy các Giang Ðoàn Xung Phong.<br /><br />3. Lực Lượng Thủy Bộ (LL Ðặc Nhiệm 211) đóng tại Bình Thủy, chỉ huy các Giang Ðoàn Thủy Bộ.<br /><br />4. Lực Lượng Tuần Thám (LL Ðặc Nhiệm 212) đóng tại Châu Ðốc, chỉ huy các Giang Ðoàn Tuần Thám.<br /><br />5. Lực Lượng Trung Ương (LL Ðặc Nhiệm 214) đóng tại Ðồng Tâm, chỉ huy các Giang Ðoàn Ngăn Chận.<br /><br />Bộ Tư Lệnh Hành Quân Biển, gồm có:<br /><br />1. Hạm Ðội: Chia thành Hải Ðội I Tuần Duyên, Hải Ðội II Chuyển Vận, và Hải Ðội III Tuần Dương, gồm nhiều chiến hạm đủ loại, đủ cỡ hoạt động trong sông cũng như ngoài biển, từ vĩ tuyến 17 đến Vịnh Thái Lan.<br /><br />2. Các vùng duyên hải: Chỉ huy các Duyên Ðoàn, Giang Ðoàn, Ðài Kiểm Báo, Hải Ðội Duyên Phòng, Tiền Doanh Yểm Trợ. Mỗi vùng duyên hải chịu trách nhiệm một vùng bờ biển.<br /><br />- Vùng I Duyên Hải, đóng tại Ðà Nẵng, chịu trách nhiệm từ vĩ tuyến 17 đến Quảng Ngãi.<br /><br />- Vùng II Duyên Hải, đóng tại Cam Ranh, chịu trách nhiệm từ Bình Ðịnh đến Phan Thiết.<br /><br />- Vùng III Duyên Hải, đóng tại Vũng Tàu, chịu trách nhiệm từ Phước Tuy tới Kiến Hòa.<br /><br />- Vùng IV Duyên Hải, đóng tại Phú Quốc, chịu trách nhiệm từ Mũi Cà Mau đến biên giới Miên-Việt trong vịnh Thái Lan.<br /><br />- Vùng V Duyên Hải, đóng tại Năm Căn, chịu trách nhiệm vùng biển Ba Xuyên, An Xuyên, một phần tỉnh Kiên Giang và các hải đảo như Poulo Obi.<br />Kết luận<br /><br />Khi đề cập đến chiến tranh là nói đến tàn phá và chết chóc (nhất tướng công thành vạn cốt khô!), nhưng ngoài việc hy sinh xương máu để bảo vệ tổ quốc, QLVNCH cũng đã đóng góp đắc lực vào việc xây dựng đất nước. Các doanh trại hàng hàng lớp lớp, các hải cảng, giang cảng tối tân có thể đón nhận những thương thuyền cỡ lớn, những phi trường quốc tế hạng A, những cầu cống tối tân do Công Binh xây cất đã từng thay đổi hẳn bộ mặt quê hương Việt Nam, tự một thuộc địa nghèo nàn dưới sự cai trị của thực dân Pháp gần 100 năm, thành một quốc gia tiến bộ vào bậc nhất trong vùng Ðông Nam Á.<br /><br />Riêng Quân Lực VNCH, thoát thai từ một đội quân phụ thuộc vào lực lượng viễn chinh Pháp, không có chính nghĩa quốc gia, nhưng sau này đã trở thành một quân lực hùng mạnh dưới thời đệ nhất Cộng Hòa vào năm 1955 cho tới khi tàn cuộc chiến. Biến cố đau thương vào tháng 4 năm 1975 đã bức tử quân đội miền Nam, nhưng dư âm và hình ảnh oai hùng của người lính chiến VNCH vì dân trừ bạo vẫn còn ghi sâu vào tâm khảm mọi người.<br /><br />Cuộc đời như "như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao," như "bóng câu qua cửa sổ". Mười mấy tám năm trôi qua như gió thoảng ngoài hiên, nhưng đối với người lính chiến Việt Nam, dù lưu lạc nơi đâu vẫn tưởng như đêm nào còn ôm súng chờ giặc nơi tuyến đầu. Mỗi khi nhắc đến quá khứ, người ta cho đó chỉ là "vang bóng một thời." Nhưng đối với những chiến sĩ QLVNCH, những người trong cuộc, những người đã từng cầm súng đánh lại bọn Cộng Sản vong nô, những chứng nhân hào hùng và đau thương của cuộc chiến, sẽ không thể nào quên được một tập thể trong đó họ đã đóng góp biết bao xương máu và cả tuổi hoa niên. Mỗi khi nhắc đến lịch sử oai hùng của QLVNCH, những người lính chiến Việt Nam tưởng như nhắc lại chính cuộc đời mình và những trách nhiệm cũng như bổn phận đối với đất nước chưa làm tròn.<br /><br />Vì vậy, dù không còn được cầm súng giết giặc ngoài sa trường, nhưng người lính QLVNCH vẫn bền gan đấu tranh trên các mặt trận chính trị, văn hóa, kinh tế, cho đến khi nào gót thù không còn giầy xéo trên quê hương và thanh bình thịnh vượng thật sự trở về với quốc gia dân tộc. Nếu vì hoàn cảnh bó buộc không thể trực diện đấu tranh với bọn Cộng Sản bạo tàn, ít ra chúng ta cũng không hèn nhát, không phản bội quê hương hay đâm sau lưng đồng đội bằng cách bắt tay với giặc thù dù dưới chiêu bài đẹp đẽ đến đâu đi nữa.<br /><br />Mọi ý đồ, tham vọng đen tối, ngông cuồng và man rợ của bất cứ cá nhân, đoàn thể hay đảng phái nào đi ngược lại với quyền lợi tối thượng của dân tộc trước sau thế nào cũng bị thất bại. Những chiến sĩ QLVNCH chân chính và xứng đáng luôn luôn sáng suốt để phục vụ cho chính nghĩa quốc gia dân tộc.<br /><br /><br />Trần Hội & Trần Ðỗ Cẩm (camtran11@yahoo.com)<br />(Trích Nguyệt San Ðoàn Kết (Austin, TX) số 40, tháng 6 năm 1993)<br /><br /></span>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-28929948063186660522008-03-28T16:38:00.001-07:002008-12-11T03:12:36.370-08:00Su Doan 9 BB<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiG0dPQPSxUdSq3_4oTdsIu2l_g9VZYxWi-Aw3tLhQPhhZWSLcNmAgamSHLa_5t_JEvb2dap3dx9c1l255JOufkwQrCTVMqfUaVkIaGMC6sUxYSL62SKsxiIp8AMREOnly1s9D6axOvIVI/s1600-h/sd9.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiG0dPQPSxUdSq3_4oTdsIu2l_g9VZYxWi-Aw3tLhQPhhZWSLcNmAgamSHLa_5t_JEvb2dap3dx9c1l255JOufkwQrCTVMqfUaVkIaGMC6sUxYSL62SKsxiIp8AMREOnly1s9D6axOvIVI/s400/sd9.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213265130721380402" /></a><br /><br /><span style="font-weight:bold;"> ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ<br /> Theo như tài liệu của Ban Quân sử và Thông Tin Báo Chí Sư Đoàn thì Sư Đoàn 9 Bộ Binh được thành lập vào ngày 9 tha'ng 1 năm 1962 tại Qui Nhơn, Trung phần Việt Nam. Sau thời gian tổ chức, phối trí và huấn luyện tại Dục Mỹ, Ninh Hoà, Nha Trang, Bộ Tư lệnh đầu tiên di chuyển về đồn trú tại căn cứ Bà Gi, thuộc quận Phù Cát tỉnh Bình Định. Trung đoàn 13 đồn trú tại Quy Nhơn, Trung đoàn 14 tại Phù Cát và Trung đoàn 15 tại An Khê . Trách nhiệm chính của Sư Đoàn bấy giờ là bảo vệ An ninh lãnh thổ vùng Bắc Bình Định từ đèo Mang Giang, Phù Cũ đến Tam Quan, Bồng Sơn. Vị Tư lệnh đầu tiên của Sư Đoàn là Trung Ta' Bùi Dzinh ( sau la` Dai Ta). Các vị Tư lệnh tiền nhiệm khác là Đại Tá Đoàn Văn Quảng ( sau la` Thieu Tuong ), Thiếu Tướng Vĩnh Lộc ( tức Trung Tướng Vĩnh Lộc ), Chuẩn Tướng Lâm Quang Thi ( tức Trung Tướng LQT ). Thiếu Tướng Trần Bá Di, và vị Tư lệnh cuối cùng là Chuẩn Tươ'ng Huỳnh văn Lạc.<br /><br /> Không lâu sau đó, do tình hình chiến trường đòi hỏi, Sư đoàn 9 BB được di chuyển về vùng đồng bằng sông Cửu Long. Bộ Tư lệnh đồn trú tại Sa Dec. Trong biến cố 1.11.1963, Sư Đoàn 9 BB là đơn vị duy nhất đưa quân về tiếp cứu thủ đô Sài Gòn nhưng nhiệm vụ đã không hoàn thành . Năm 1972, hậu cứ Sư Đoàn một lần nữa được dời về Vĩnh Long, tiếp nhận phi trường Vĩnh Long tức là trại Nguyễn Viết Thanh, được bàn giao lại từ quân đội Hoa Kỳ.<br /><br /> <br /> Lực lượng cơ hữu của Sư Đoàn 9 BB gồm có:<br /><br /> - Các Trung đoàn 14, 15, và 16 bộ binh là những đơn vị bộ binh nòng cốt với các tiểu đoàn bộ binh và đại đội trinh sát, trực tiếp chiến đấu, tham dự vào các cuộc hành quân ngoài chiến trường. Trung đoàn 14 có hậu cứ tại Vĩnh Bình . Trung đoàn 15 sau khi di chuyển từ miền Trung vào Mỹ Tho đến Long Xuyên, rồi cuối cùng đồn trú tại Đám Lác, Sadec, và Trung đoàn 16 tức tiền thân của Trung đoàn 13, đồn trú tại Long Hồ, Vĩnh Long.<br /><br /> - Các đơn vị pháo binh của Sư đoàn gồm có Tiểu đoàn Pháo Binh 90, 91, 92 và 93. Các Tiểu đoàn 90, 92 và 93 Pháo binh có hậu cứ tại Vĩnh Long . Tiểu đoàn 91 đồn trú tại Sadec, sau đó cùng dời về Trại Nguyễn Viết Thanh theo BTL Sư Đoàn . Các đơn vị Pháo Binh của Sư đoàn được trang bị đại bác 105 ly, riêng Tiểu đoàn 90 Pháo binh dược trang bị các khẩu đội 155 ly .<br /><br /> - Thiết đoàn 2 Kỵ Binh có hậu cứ tại Vĩnh Long gồm các thiết vận xa M113, đặc biệt dùng cho chiến trường đầm lầy và sông rạch vùng châu thổ sông Cửu Long, đã nhiều lần gây khiếp sợ cho địch quân, đặc biệt là trong các cuộc hành quân ven biên và giúp quốc gia bạn trên lãnh thổ Chua` Tha'p.<br /><br /> - Ngoài ra Sư đoàn còn có các đơn vị chuyên môn yểm trợ khác là Tiểu đoàn 9 Quân Y có các bệnh xá và bệnh viện với đầy đủ thuốc men và dụng cụ để điều trị khẩn cấp Thương binh từ chiến trường, được điều hành bởi các Quân Y- Nha, Dược sĩ lành nghề, đào tạo từ Trường Đại Học Y-Khoa Sài Gòn và ngoại quốc .<br /><br /> Tiểu đoàn 9 Truyền tin được mênh danh là thần kinh hệ của chiến trường, được trang bị máy móc tối tân gồm cả các hệ thống Rada để điều khiển chiến đấu ngoài trận tuyến và liên lạc giữa Sư đoàn và các đơn vị tại hậu phương .<br /><br /> Tiểu đoàn 9 Công Binh có nhiệm vụ lập đồn luỹ, thiết lập an ninh trên các trục lộ hành quân, đặc biệt với công tác dân sự vụ như tu sửa những hệ thống giao thông mới .<br /><br /> Tiểu đoàn 9 Tiếp vận có nhiệm vụ cung cấp quân trang, quân dụng vũ khí, đạn dược, và đặc biệt là nhiên liệu cho các dơn vị cơ hữu.<br /><br /> - Các Đại Đội Vận Tải cung cấp nhu cầu phương tiện di chuyển đổ quân bằng đường bộ đến khắp các chiến trường trực thuộc Sư đoàn . Đại Đội Trinh Sát 9 là đại đội thám kích và thám báo, gồm những chiến sĩ quả cảm và kiên cường,trực tiếp điều động bởi Tư lệnh Sư đoàn, có nhiệm vụ hành quân đặc biệt về an ninh và chiến sự tùy theo nhu cầu chiến trường đòi hỏi . Đại Đội 9 Tổng Hành Dinh và Đại Đội công vụ lo về an toàn hậu cứ và hậu sự của những chiến hữu đền nợ nước . Sau cùng cũng phải kể đến Đại Đội 9 Quân Cảnh được thành lập từ sau năm 1972, có nhiệm vụ duy trì an ninh trật tự kỷ luật tại hậu cứ cũng như tiền phương .<br /><br /> <br /> NHUNG CHIEN TíCH ĐÁNG GHI NHỚ<br /> <br /><br /> Thời gian những năm 1964 đến 1970, Sư Đoàn 9 BB chịu trách nhiệm khu 41 Chiến Thuật, gồm các tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Bình, An Giang và Sa Dec. Sau năm 1970, Sư Đoàn 9BB không còn chịu trách nhiệm an ninh lãnh thổ nữa mà trở Thành lực lượng cơ động nòng cốt của Quân Đoàn IV/QLVNCH, sẵn sàng yểm trợ bất cứ nơi nào trong lãnh thổ Quân Khu 4. Các chiến thắng mang lại tiếng tăm cho SD9BB là cuộc hành quân mang tên LONG PHI, đặc biệt tại vùng Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt nằm sát biên giới Việt Miên vào cuối năm 1969 và đầu năm 1970, và các cuộc hành quân LONG PHI khác, càn quét hậu cần Cộng Quân tại Ba Thu, đa'nh tận các sào huyệt, triệt đường chuyển quân và tiếp vận của chúng cho công trường 9 CSBV mưu toan xâm nhập đồng bằng Cửu Long. Cũng trong năm 1970, SD9BB là một trong những đại đơn vị đem quân đánh tận ổ Cộng quân ngay trên lãnh thổ Căm-Bốt, khiến suốt một giải hai bên bờ biên giới từ Hà Tiên, Kiên Giang đến sát lãnh thổ Quân đoàn III/Quân Khu 3 VNCH, an ninh lãnh thổ hoàn toàn bảo đảm. Từ đo' Sư Doàn 9BB được mênh danh là Sư Doàn Mũi Tên Thép vì phù hiệu của Sư đoàn gồm số 9 với hai phần xanh đỏ, cùng với mũi tên hướng về phía bắc tượng trưng cho công cuộc Bắc tiến, đánh tan tập đoan Cộng đỏ, mong khôi phục đất nước về một mối. Vơ’i những thành ti’ch và công trạng trong sư’ mạng chiê’n đâ’u bảo vệ Quê hương và đồng bào , SD9BB được tuyên dương công trạng trươ’c Quân Độị .Quân kỳ Sư Đoàn 9 và ca’c chiê’n sĩ được mang dây biểu chương màu Tam hợp Bảo Quô’c . Nam 1971 Trung doàn 16 bộ Binh đã ổn định vùng Thâ’t Sơn huyền bi’ Châu Đô’c và cũng năm đo’ Trung đoàn 15 BB đã ta’i lập an ninh vùng Ba Hòn gồm Hòn Dâ’t Hòn Me, Hòn So’c , đuổi CQ ra khỏi cư’ địa hiểm trơ Mo So thuộc vùng Kiên Lương. Kiên Giang Mùa Hè năm 1972, Trung đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9BB được vinh dự tăng phái cho lực luợng giải tỏa An Lộc và là một trong những đơn vị bắt tay với đơn vị tử thủ của Tướng Lê Văn Hưng. Người hùng chỉ huy chiê'n đoàn 15 này là Đại Tá' Hồ Ngọc Cẩn, người đã anh dũng chống lại quân Cộng sản tại Chương Thiện đến viên đạn cuối cùng sáng ngày 1 tháng 5.75. Sau đó, chúng đã hèn nhát đem xử tử ông tại sân vận động Cần Thơ, nhưng ông vẫn anh dũng hiên ngang tự hào không tỏ chút sợ sệt khiến bọn CS hèn hạ cũng phải e dè kiêng nể, công nhận là một trang anh hùng bất khuất và can trường.<br /><br /><br /> NHUNG NGAY CUOI CUOC CHIẾN<br /><br /> <br /> Chiến trường vùng đồng bằng sông Cửu Long vào những ngày gần cuối cuộc chiến phải nói là thật yên tĩnh nếu không nói là CQ đã bị đại bại khắp nơi trên lãnh thổ Quân khu 4, và cũng có thể nói là chúng không còn lực lượng nữa vì phải bổ sung tăng phải cho các mặt trận khác đang hồi quyết liệt. Mà thật vậy, vùng cửa sông Chín Rồng thì các chiến sĩ Sư đoàn 7BB đang làm chủ tình hình. Vùng miệt Cà Mau, U Minh Chương Thiện thì các chiến sĩ Sư Đoàn 21 Sét Miền Tây cũng không cho bọn Cộng ăn yên ngủ ngon bằng những cuộc hành quân liên tiếp. Riêng mặt trận vùng Tây Bắc Quân khu 4, sát biên giới Việt Miên như Kiến Phong, Kiến Tường thì các chiến sĩ Sư Đoàn 9 BB đang trên đà chiến thă'ng.<br /><br /> Vào cuối năm 1973 và đầu 1974, Trung đoàn 14 BB do Đại Tá Lê Trung Thành làm trung đoàn trưởng đã thu đoạt mt chiến thắng lẫy lừng tại vùng Đồng Tháp Mười, đánh tan tác một trung đoàn địch, tịch thu một số lượng lớn vũ khí cá nhân và cộng đồng đủ loại, đồng thời cũng phá hủy và tịch thu một số lượng lớn lương thực lúa gạo của chúng. Sau chiến thắng này, Tổng Thống VNCH cùng Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH đã dùng trực thăng xuống tận trận địa thuộc quận lỵ Mỹ An nằm sâu trong vùng Tháp Mười để thị sát chiến trường, xem xét chiến lợi phẩm và ủy lạo tinh thần anh em chiến sĩ.<br /> <br /> Trước tháng 4 năm 75 không xa, một đơn vị Khác của SD9BB cũng đã đột nhập một mật khu khác của Cong quân tại vùng Mộc Hoa', Kiến Tường và đã khám phá và tịch thu một hầm chôn dấu vũ khí khổng lồ của chúng với hàng ngàn súng đạn đủ loại còn mới tinh nằm trong bọc giấy dầu chưa khui. Những vũ khí đạn dược này đều mang nhãn hiệu Tàu cộng và Nga cộng và khối Cộng sản Đông Âu.<br /><br /> Trước tình hình biến chuyển quá bất ngờ tại Quân Khu 1 và Quân Khu 2 cùng một số nơi tại QK3, các chiến sĩ SD9BB vẫn can trường giữ vững tay súng, bảo đảm an ninh tuyệt đối cho đồng bào miền Tây. Quốc lộ 4, con đường huyết mạch vẫn nhộn nhịp xe cộ như thuở tha'i bình. Khu vực hoạt đông của SD9BB lúc này trải rộng từ Kiên Giang (Rạch Giá), Châu Đốc, Kiến Phong (Cao Lãnh, Đồng Tháp Mười), Kiến Tường (Mộc Hoá) đến Định Tường (Mỹ Tho). Ngoài hậu cứ chính tại phi trường Vĩnh Long (Trại Nguyễn Viết Thanh), Sư Đoàn còn một Bộ Chỉ Huy Nhẹ tại Mộc Hoá và một Bộ Tư lệnh hành quân tại Mỹ Tho.<br /> <br /><br /> Sáng ngày 30 tháng 4, mặc dù lệnh đầu hàng của tướng Dương văn Minh được loan ra trên đài phát thanh Sài Gòn, Quân Khu 4 vẫn yên lặng vì Quân Đoàn chưa tỏ thái độ . Trên không phận Vĩnh Long, đây đó vài chiếc trực thăng và máy bay loại nhẹ VNCH không biết từ đâu tới đảo lượn vài vòng rồi lại nhắm hướng khác bay đi như vào nơi vô định. Trong khi đó, các chiến sĩ SD9BB, một mặt thiêu hủy những tài liệu mật quan trọng, mặt khác vẫn giữ chặt tay súng trên hầu hết các mặt trận xung yếu, đặc biệt là chận đứng mưu toan của cộng quân nhằm cắt quốc lộ 4 tại Tân An . Trước đó, vào đêm ngày 29 tháng 4, cộng quân pháo kích vào phi trường Vĩnh Long, hậu cứ của SD9BB, nhưng đã bị các khẩu đi pháo 105 và 155 ly của SD9 khóa họng tức thì. Chiều tối và suốt đêm 30.4, tại Bộ Chỉ Huy Tiền Phương ở Mỹ Tho, Chuẩn tướng Huỳnh Văn Lạc cùng toàn bộ Ban Tham Mưu vẫn túc trực tại Trung Tâm Hành quân để theo dõi tình hình và chỉ huy con cái sẵn sàng phản công địch khi cần, dù đã có bóng vài tên CQ lảng vảng trong thành phố và mặc dù chúng đã bắt liên lạc được với tần số truyền tin của ta và khoác lác thuyết phục chúng ta đầu hàng. Đến rạng sáng ngày 1 tháng 5 thì liên lạc với Quân Đoàn bị gián đoạn hẳn (lúc này là lúc các tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng đã anh dũng đền nợ nước bằng cách tự xử mình đ' tròn tiết tháo của vị tướng da ngựa bọc thây). Tiếp đó thì liên lạc vô tuyến và điện thoại giữa Bộ Chỉ Huy Nhẹ Tiền Phương và Hậu cứ cùng các đơn vị hành quân và cơ hữu trực thuộc cũng gián đoạn. Đây là giây phút đau lòng nhất cho các chiến sĩ Quân Đoàn IV/QK4 nói chung và SD9BB nói riêng vì bỗng dưng không đánh mà tan. Có thể nói, suốt mười ba năm kể từ ngày thành lập vào năm 1962 đến ngày này, vinh nhục đều có, nhưng chưa lần nào một đơn vị như SD9 BB lại lâm vào tình thế khó khăn như lần này. Tại Bộ Tư lệnh Tiền Phương, Chuẩn Tướng Huỳnh Văn Lạc đã an ủi chia tay các chiến hữu và ông đã ở lại đơn vị đến giây phút cuối cùng. Tại hậu cứ Vĩnh Long, mãi đến 8 giờ sáng ngày 1.5 mới có một toán du kích chừng 6,7 tên ăn mặc luộm thuộm, với vài ba cây súng đi chuyển bằng xe lambretta 3 bánh ngơ ngác vào giữ cổng trại Nguyễn Viết Thanh.<br /><br /> <br /> Kể từ Tháng 4 ngày ấy đến nay thấm thoát đã gần ba chục năm . Trải qua bao biển dâu của vận nước tang thương . Hôm nay nơi xứ người, dat tạm dung, những người lính đã một thời năm xưa cầm súng bảo vệ quê hương lại có dịp tề tựu bên nhau để ôn lại những chiến công quá khứ và làm bài học cho lớp trẻ hậu thế . Chúng ta không khỏi bùi ngùi nhìn lại những mái tóc đã điểm sương, hay bạc xoá hiện diện nơi đây nhưng cũng không quên những đồng đội đã ra đi vĩnh viễn trên chiến trường, trong các trại lao tù CS, trên đường tìm tự do hay nơi nào đó trên đất nước VN và nhũng chiến sĩ vô danh khác đang còn đầy đoạ nơi nào đó trên quê hương chưa sạch bóng thù .<br /><br /> <br /> Nguyễn Phùng</span>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-83296832762016288272008-03-28T16:22:00.000-07:002008-12-11T03:12:36.496-08:00Su Doan 18BB<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjb_VSoUcWbuiE5w7THt_B9UR6uif2RSCo19gU_uz29KQ7o-BX33vYQhZlYPUuX1sBVKzMLg9tdq94JOBFPEdLj_kR39xa-sPQ0xh5AzDXC43Q6jbh0S7Qw_Ig4VdU7pnNwtyuM36MuSH8/s1600-h/sd18.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjb_VSoUcWbuiE5w7THt_B9UR6uif2RSCo19gU_uz29KQ7o-BX33vYQhZlYPUuX1sBVKzMLg9tdq94JOBFPEdLj_kR39xa-sPQ0xh5AzDXC43Q6jbh0S7Qw_Ig4VdU7pnNwtyuM36MuSH8/s400/sd18.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213265374301726578" /></a><br /><br /><span style="font-weight:bold;">LƯỢC SỬ...<br /><br />Sư Đoàn 10 Bộ Binh chính thức được thành lập vào ngày 16.5.1965 tại Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh với cơ cấu được hình thành từ các Trung Đoàn 43, Trung Đoàn 48 và Trung Đoàn 52 Biệt Lập, cùng các đơn vị yểm trợ và tác chiến kỹ thuật. Sau đó, Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh cũng được gia nhập và trở nên thành phần cơ hữu của Sư Đoàn 10 Bộ Binh. <br /><br />Phù hiệu SĐ10BB là màu xanh nhạt tượng trưng cho bầu trời xanh, có hình núi Chứa Chan màu xanh lá cây với mười (10) ngôi sao màu vàng hình vòng tròn chung quanh ngọn núi, phía dưới có hai lằn tượng trưng cho con sông La Ngà.<br /><br />Vào ngày 1.1.1967, Sư Đoàn 10 Bộ Binh được cải danh thành Sư Đoàn 18 Bộ Binh, theo lời đề nghị của Chuẩn Tướng Đỗ Kế Giai, đương kim Tư lệnh Sư đoàn. <br /><br />Phù hiệu SĐ18BB là màu xanh nhạt tượng trưng cho bầu trời xanh, màu xanh đậm tượng trưng cho màu đất, và cung tên dựa vào truyền thuyết "Nõ Thần" thời An Dương Vương trong lịch sử cổ đại của dân tộc Việt: một phát tên bắn ra có thể giết chết hàng vạn tên giặc.<br /><br />Trong giai đoạn đầu từ năm 1965 đến năm 1969, Sư Đoàn 18 Bộ Binh chịu trách nhiệm Khu 33 Chiến Thuật, bao gồm những tỉnh Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy, Bình Tuy và Đặc Khu Vũng Tầu.<br /><br />Lực lượng cơ hữu của Sư Đoàn 18 Bộ Binh gồm có:<br /><br />- Đại Đội 18 Trinh Sát trực tiếp dưới quyền điều động của Tư lệnh Sư đoàn.<br /><br />- Trung Đoàn 43:<br /><br />Trung Đoàn 43 là một trong những đơn vị kỳ cựu của QLVNCH, thoát thai từ Trung Đoàn 404 Bộ Binh của Sư Đoàn 15 Khinh chiến (cải danh từ Sư Đoàn 5 Khinh Chiến vào năm 1955), được thành lập tại Phan Thiết, đã tham dự các chiến dịch tại chiến trường Miền Nam, như dẹp loạn Bình Xuyên của Bảy Viễn, loạn Ba Cụt ở Miền Tây. Trước khi trở thành đơn vị cơ hữu của SĐ10BB (tiền thân của SĐ18BB), Trung Đoàn 43 Biệt lập thuộc Biệt Khu Bình Lâm, bản doanh đóng tại Quận Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Hoạt động hành quân trong lãnh thổ ba tỉnh: Lâm Đồng, Bình Thuận và Bình Tuy. <br /><br />Các vị sĩ quan ưu tú từng nắm giữ chức vụ chỉ huy Trung Đoàn như Lam Sơn, Võ Văn Cảnh, Quách Đăng, Lý Bá Phẩm, Đàm Văn Quý, Nguyễn Văn Điền, Lâm Quang Chính, Trần Đình Bích, Trần Văn Nhựt, Nguyễn Bá Mạnh Hùng, Hứa Yến Lến, và cuối cùng là Đại Tá Lê Xuân Hiếu. <br /><br />Hậu cứ của Trung đoàn 43 đóng tại tỉnh Long Khánh.<br /><br />Năm 1974, Tiểu đoàn 2/43 đã được Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tuyên dương công trạng trước Quân đội. <br /><br />- Trung Đoàn 48: <br /><br />Trung Đoàn 48 được đổi danh hiệu từ Trung Đoàn 32/Sư Đoàn 21 Bộ Binh để trở thành Trung Đoàn 48 Bộ Binh Biệt Lập vào ngày 16/03/1963, để cùng hai Trung đoàn 43 và 52 kết hợp thành SĐ10BB vào năm 1965. <br /><br />Trung đoàn 48 đã hoạt động khắp lãnh thổ Miền Tây và Vùng III chiến thuật. Những địa danh đã đi qua như Thừa Đức, Bình Đại ở Bến tre, Năm Căn, Cái Nước, Biện Nhị, Sông Ông Đốc, Thới Bình, Huyện Sử, U Minh của Cà Mau thuộc Vùng IV Chiến Thuật, tận cùng đất nước của đồng bằng Sông Cửu Long; cho đến những địa danh ở Vùng III Chiến Thuật như: Mã Đà, Rang Rang, Đồng Tình Ra, Suối Chó Chết, Xóm Xình, Xóm Cạn, Bầu Cá Trê, Phú Giáo, Nước Vàng, Ngã Ba Ông Lình, Gióc Bà Nghĩa, Bình Cơ, Bình Mỹ, Xóm Bà Chủ, Khánh Vân, Đồng Xoài, Phước Long thuộc Chiến Khu Đ, mật khu Mây Tào, Mũi Kê Gà, cửa khẩu Bình Châu, Vỏ Xu, Mê Pu, Mật khu Ara Sa Lua, Bình Giả, tái chiếm Quận Đất Đỏ, Xà Bang, mật khu Hắc Dịch, Trảng Táo, Cây Gáo, Trảng Bàng, Đồng Ớt, mật khu Hố Bò, Bời Lời, hành quân vượt biên sang Krek, Mimot, Chúp, Chipu Campuchia... Tái chiếm Đồi Gió, Phi trường Quảng Lợi An Lộc, khai thông Quốc Lộ 13 khu vực Búng ở Lái Thiêu sau khi ngưng bắn đầu năm 1973, khai thông Quốc Lộ 15 ở Suối Cát, Quận Long Thành Tỉnh Biên Hòa, Tam Giác Sắt, tái chiếm An Điền, Căn cứ 82. <br /><br />Các vị sĩ quan từng nắm giữ chức vụ chỉ huy Trung Đoàn như Trần Ngọc Nguyên, Trần Bá Thành. Đại Tá Trần Bá Thành nắm giữ chức vụ Trung đoàn trưởng cho đến tháng 1 năm 1975 thì được chỉ định đi làm Tỉnh Trưởng Bình Tuy. Vị Trung đoàn trưởng cuối cùng là Trung Tá Trần Minh Công. <br /><br />Hậu cứ của Trung đoàn 48 đóng tại căn cứ Long Giao (căn cứ Black Horse củ), cách Chi khu Xuân Lộc 8 cây số về hướng Nam. <br /><br />- Trung Đoàn 52: <br /><br />Trung Đoàn 52 trước khi trở thành đơn vị cơ hữu của SĐ18BB là Trung đoàn 135 Địa Phương, đồn trú tại Sàigòn, hậu cứ Trung đoàn đặt tại Trại Lê Văn Duyệt mãi cho đến ngày tan hàng. <br /><br />Khoảng năm 1965/66 tại xã Võ Xu-Võ Đắc thuộc tỉnh Bình Tuy, Tiểu đoàn 1/52 đã lập được chiến công rất lớn, đánh tan khoảng 2 Tiểu Đoàn VC, địch chết vài trăm mạng và thu được rất nhiều vũ khí. Trong trận này Tiểu đoàn đã nhận được huy chương của Tổng Thống Mỹ tại sân cờ Bộ Tư Lệnh SĐ18BB năm 1967. Tướng Westmoreland lúc đó là Tư Lệnh Quân Đội Mỹ tại VN đại diện Tổng Thống Mỹ trao tặng huy chương. Năm 1974, Tiểu đoàn 1/52 đã được Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tuyên dương công trạng trước Quân đội với thành tích bắt sống xe tăng địch tại An điền (Bến Cát). Hai chiếc xe tăng địch đã được kéo về trưng bày trong khuôn viên Dinh Độc Lập. <br /><br />Trong trận đánh cuối cùng vào tháng 4.1975 tại mặt trận Xuân Lộc (Long Khánh), TĐ2/52 đã lập được chiến công tiêu diệt 1 đoàn xe vừa chở quân, vừa chở đồ tiếp tế và hơn 100 xác CSBV bỏ lại tại chiến trường; nhiều vũ khí kể cả đại liên phòng không gắn trên xe bị tịch thu gần Suối Tre. TĐ3/52 cũng vang danh trong trận đánh tại Đồi Móng Ngựa. Trung đoàn 52 có hậu cứ tại Đồi Phượng Vỹ, Núi Chứa Chan (ngã ba Ông Đồn). Vị Trung đoàn trưởng cuối cùng là Đại Tá Ngô Kỳ Dũng.<br /><br />- Pháo binh của Sư đoàn gồm có Tiểu Đoàn 180 Pháo Binh trang bị các khẩu đội 155 ly, và các Tiểu Đoàn 181, 182, và 183 Pháo Binh trang bị các khẩu đội 105 ly. Các Tiểu đoàn pháo binh có hậu cứ đóng tại Long Bình. <br />Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh (Armory Cavalry 5 Regiment) có hậu cứ tại Long Bình gồm các chiến xa M41 và thiết vận xa M113.<br /><br /><br /> Ngoài ra Sư đoàn 18 Bộ Binh còn có các đơn vị chuyên môn yểm trợ gồm có:<br /><br />- Tiểu đoàn 18 Quân Y<br />- Tiểu Đoàn 18 Truyền Tin<br />- Tiểu Đoàn 18 Công Binh (18th Engineer Brigade)<br />- Tiểu Đoàn 18 Tiếp Vận<br />- Đại Đội 18 Vận Tải <br />- Đại Đội 18 Tổng Hành Dinh<br />- Đại Đội 18 Công Vụ <br />- Đại Đội 18 Quân Cảnh (18th Military Police Battalion)<br />- Biệt Đội Quân Báo (thuộc Trung Tâm Quân Báo)<br />- Biệt Đội Tác Chiến Điện Tử (thuộc Phòng 7/BTTM)<br />- Biệt Đội Kỷ Thuật (thuộc Phòng 7/BTTM)<br /><br />TUYÊN DƯƠNG CÔNG TRẠNG:<br /><br />Năm 1972, Quân kỳ của Sư Đoàn được tưởng thưởng "một Anh Dũng Bội TInh với Nhành Dương Liễu."<br />Năm 1974, SĐ18BB đã được tuyên dương là "Đơn Vị Xuất Sắc" của QLVNCH.<br />Năm 1975, Quân kỳ của Sư Đoàn được tưởng thưởng "Ba Anh Dũng Bội TInh với Nhành Dương Liễu." <br /><br />Tổng cộng Quân kỳ của Sư Đoàn được tưởng thưởng bốn (4) lần “Anh Dũng Bội TInh với Nhành Dương Liễu" và được vinh dự mang "Giây Biểu Chương màu Quân Công Bội Tinh" (màu xanh).<br /><br /><br />NHỮNG VỊ TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN:<br /><br />Sư Đoàn 18 Bộ Binh được lần lượt đặt dưới quyền chỉ huy của những vị Tư Lệnh sau:<br /><br />Đại Tá Nguyễn Văn Mạnh: 16/05/1965 (cấp bậc cuối cùng là Trung Tướng)<br />Chuẩn Tướng Lữ Lan: 10/08/1965 (khi rời Sư đoàn là Thiếu Tướng, cấp bậc cuối cùng là Trung Tướng)<br />Đại Tá Đỗ Kế Giai:15/09/1966 (khi rời Sư đoàn là Chuẩn Tướng, cấp bậc cuối cùng là Thiếu Tướng)<br />Chuẩn Tướng Lâm Quang Thơ: 20/08/1969 (cấp bậc cuối cùng là Thiếu Tướng)<br />Đại Tá Lê Minh Đảo: 04/04/1972 đến ngày 30.4.1975 là Thiếu Tướng</span>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-53968263225773744502008-03-28T16:16:00.001-07:002008-12-11T03:12:36.805-08:00Truong Vo Bi Quoc Gia<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgaFhyphenhyphenNIHVKrovQYeTKlcdhQQAIAuohJhOGS5PFw7a1CMLw2ZJGh7ohy-2AS1M6yqaM59NAkGAs9MJ14gkazI1WeteF1inLqEqPUwuUbQS6G5MdPCxHgTZdLamOCmL692XRm37Bjox26WE/s1600-h/vobidalat.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgaFhyphenhyphenNIHVKrovQYeTKlcdhQQAIAuohJhOGS5PFw7a1CMLw2ZJGh7ohy-2AS1M6yqaM59NAkGAs9MJ14gkazI1WeteF1inLqEqPUwuUbQS6G5MdPCxHgTZdLamOCmL692XRm37Bjox26WE/s400/vobidalat.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213265610888793250" /></a><br /><br /><span style="font-weight:bold;">Lịch sử Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam<br />Lịch Sử của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam là lịch sử của một thực thể gắn liền với lịch sử cận đại của dân tộc, của lịch sử chiến tranh Việt Nam nói chung và của giòng Quân Sử Việt nói riêng. Vào năm 1945, khoảng thời gian mà nhân loại đang hân hoan đón chào một nền hòa bình thật sự qua sự đổ vỡ toàn diện của phe Trục, người dân Việt Nam vẫn chịu âm thầm chiến đấu cho nền tự do và hòa bình của mình. Công cuộc tranh đấu này đã đem lại một thành quả đầu tiên qua Hiệp Ước Vịnh Hạ Long vào năm 1948, mà theo đó, người Pháp công nhận Việt Nam độc lập trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp. Cùng trong năm ấy một Quân Đội Quốc Gia được thành hình nhưng vẫn nằm trong sự chi phối của người Pháp. Vừa tranh đấu với ngoại bang vừa chống trả lại những thủ đoạn gian manh lừa đảo của tập đoàn Cộng Sản Quốc Tế mà đại điện là Hồ Chí Minh, chính phủ lúc bấy giờ đã cho thành lập một Trường Sĩ Quan Hiện Dịch nhằm đào tạo các cán bộ nồng cốt cho Quân Đội. Trường Sĩ Quan Huế là trường Sĩ Quan đầu tiên của Việt Nam được xây cất tại Đập Đá bên cạnh giòng sông Hương. Sau hai năm, trường Sĩ Quan Hiện Dịch Huế được di chuyển về Đà Lạt vì nơi đây có đầy đủ các điều kiện về khí hậu và huấn luyện để rèn luyện các SĩQuan thích đáng với mọi hoàn cảnh của chiến trường mai hậu. Trường được cải tổ toàn diện và được cải danh thành Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt.<br /><br />Năm 1955, Thủ Tướng Ngơ Đình Diệm thực hiện cuộc cách mạng Quốc Gia và khai sinh nền Đệ Nhất Cộng Hịa. Quân Đội Quốc Gia với toàn vẹn chủ quyền được thống nhất chỉ huy dưới danh xưng Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Trường Võ Bị Liên Quân cũng nằm trong khuôn khổ cải tổ đó và một lần nữa được cải danh thành Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, do sắc luật năm 1960 của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ông cũng là người đã đặt viên đá đầu tiên xây dựng một cơ sở huấn luyện khang trang tọa lạc tại đồi 1515, cách hồ Than Thở không xa. Với chương trình và phương pháp huấn luyện phỏng theo các tiêu chuẩn đào tạo Sĩ Quan của Trường Võ Bị West Point Hoa Kỳ, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam có trách nhiệm đào tạo các cán bộ Hải-Lục-Không Quân ưu tú cho Quân Đội, có khả năng chỉ huy, ổn định bờ cõi trong thời chiến và một trình độ kiến thức bậc Đại Học để kiến tạo quê hương trong thời bình.<br /><br />Các ứng viên muốn gia nhập Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam phải có bằng Tú Tài và được chọn lọc qua một cuộc khảo sát. Chương trình học mỗi năm được chia làm hai mùa, mùa nắng quân sự, mùa mưa văn hóa. Về quân sự, các Sinh Viên Sĩ Quan được huấn luyện chiến thuật tác chiến từ cấp Trung Đội đến Tiểu Đoàn và các cuộc hành quân liên binh. Về văn hóa, Sinh Viên Sĩ Quan được dạy chương trình bậc Đại Học dân chính, thêm vào các cuộc thực nghiệm tại các phòng thí nghiệm với các học cụ tối tân, và khi mãn khóa được cấp văn bằng Cử Nhân Khoa Học Thực Dụng.<br /><br />Để trao dồi nghệ thuật chỉ huy và lãnh đạo, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam có truyền thống tổ chức Hệ Thống Tự Chỉ Huy và 8 tuần huấn nhục cho các tân khóa sinh. Hệ Thống Tự Chỉ Huy ngoài mục đích giúp các Sinh Viên Sĩ Quan thực tập về chỉ huy, còn có tác dụng phát huy tình huynh đệ giữa các khóa. Tám tuần huấn nhục giúp khóa sinh dứt bỏ nếp sống dân chính, để khép mình vào khuôn khổ kỹ luật của nhà trường. Vì nhu cầu chiến trường nên thời gian thụ huấn của các khóa thay đổi từ hai đến ba hoặc bốn năm.<br /><br />Từ ngày thành lập cho đến tháng 4 năm 1975, Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam đã cung ứng cho các chiến trường bốn Vùng Chiến Thuật tất cả 29 khóa Sỵ Quan với tổng số gần bảy ngàn Sĩ Quan, cùng với gần 500 Sinh Viên Sĩ Quan của 2 khóa cuối cùng. Các Sĩ Quan tốt nghiệp được phân phối đi khắp các Quân, Binh, Chủng để đảm trách vai trị cán bộ Chỉ Huy hoặc Tham Mưu. Dù ở cương vị nào, kỹ thuật hay tác chiến, người Sĩ Quan xuất thân Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam vẫn luôn nuôi dưỡng tinh thần "Tự Thắng Để Chỉ Huy" và câu châm ngôn "Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm" là kim chỉ nam minh chứng mọi hành động vị quốc an dân. Đa số các Cựu Sinh Viên Sỵ Quan đã thành công trên đường binh nghiệp và làm vang danh Trường Mẹ. Những người còn sống đang tiếp tục con đường đã chọn, những người nằm xuống đã trở thành những anh hùng vị quốc vong thân.<br /><br />Sau năm 1975, dầu là Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam đã đi vào Quân Sử, nhưng truyền thống Bất Khuất và Hào Hùng chưa lịm tắt được trong tâm tư của những Sĩ Quan xuất thân từ Ngôi Trường lịch sử này.</span>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-18740173808535320432008-03-28T16:11:00.001-07:002008-12-11T03:12:37.006-08:00Truong Dao Tao Si Quan cua Luc Luong CSQG / VNCH<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgHWGyhXX2kArO3m-XoLtVmEvkHW9PKlJV4xLdqXpiWGkO93hnax7IPj31PsqCmSHM2z3tTnEbzVFKGh5rdYzbGtchJ8h82Wz38b_zMQvYQ4FN2OWUTqJgr45PR1S7T3VM-qq13w4DDss4/s1600-h/TruongCanhSatQuocGia.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgHWGyhXX2kArO3m-XoLtVmEvkHW9PKlJV4xLdqXpiWGkO93hnax7IPj31PsqCmSHM2z3tTnEbzVFKGh5rdYzbGtchJ8h82Wz38b_zMQvYQ4FN2OWUTqJgr45PR1S7T3VM-qq13w4DDss4/s400/TruongCanhSatQuocGia.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213268047020797682" /></a><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgWw1X1UUB-ykvWAXXNd7vXwG1jWucRaQ27_js4FT1RzriblMAuKK5GbWiFwHsaTG8OGzKcVBXmMzxsN1XjFeYbsFUtfy9KMMjVZzzIJsspDN_z3nw9rkgE65FLq1wSD585r9sp0o6oDv8/s1600-h/CanhSat.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgWw1X1UUB-ykvWAXXNd7vXwG1jWucRaQ27_js4FT1RzriblMAuKK5GbWiFwHsaTG8OGzKcVBXmMzxsN1XjFeYbsFUtfy9KMMjVZzzIJsspDN_z3nw9rkgE65FLq1wSD585r9sp0o6oDv8/s400/CanhSat.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213266174906496226" /></a><br /><br /><span style="font-weight:bold;">HỌC VIỆN CẢNH SÁT QUỐC GIA<br />Trường Ðào Tạo Sĩ Quan của Lực Lượng CSQG VNCH<br /><br />SVSQ Toàn Như - Khóa 1<br /> <br />Trước nhu cầu phát triển của lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia, Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia đã được thành lập kể từ đầu năm 1966 nhằm mục đích đào tạo sĩ quan các cấp Biên Tập Viên (BTV) và Thẩm Sát Viên (TSV) cho ngành CSQG Việt Nam Cộng Hòa. Biên Tập Viên và Thẩm Sát Viên là hai ngạch sĩ quan trung cấp của ngành CSQG chỉ dưới hai cấp Kiểm Tra/Tổng Kiểm Tra và Quận Trưởng Cảnh Sát. Sau cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm năm 1963, ngạch sĩ quan cao cấp Kiểm Tra & Tổng Kiểm Tra hầu như không còn ai; riêng ngạch Quận Trưởng (ngạch sĩ quan cảnh sát có bằng Cử Nhân Luật hoặc tương đương) chỉ có khoảng vài chục người. Vì vậy các sĩ quan cấp BTV và TSV đã mặc nhiên trở thành một lực lượng sĩ quan trung cấp nòng cốt của ngành cảnh sát. Trong những năm đầu thập niên 1960 tình hình chiến sự tại Miền Nam Việt Nam càng ngày càng trở nên sôi động, lực lượng CSQG không những chỉ đảm trách nhiệm vụ thi hành luật pháp và giữ gìn an ninh trật tự tại các đô thị, mà còn có nhiệm vụ phối hợp với quân đội và nhiều cơ quan bạn trong công tác bình định tại nông thôn. Do đó để đáp ứng trước tình hình mới, quân số lực lượng CSQG cũng được bổ xung lên đến trên 100.000. Vì vậy người sĩ quan CSQG nói riêng và lực lượng CSQG nói chung, ngoài kiến thức chuyên môn về luật pháp, còn cần được trang bị thêm những chuyên môn khác trong đó có cả quân sự. Vì vậy chương trình huấn luyện sĩ quan tại Học Viện CSQG cũng bao gồm cả về chuyên môn lẫn quân sự. Chương trình được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn I gồm 3 tháng huấn luyện quân sự và thời gian còn lại là giai đoạn II hay giai đoạn huấn luyện chuyên môn. Trên phương diện pháp quy, Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia được chính thức thành lập bởi Nghị Định số 416-NĐ/NV do Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (chức vụ tương đương Thủ Tướng) ký ngày 12 tháng 3 năm 1966 nhằm mục đích đào tạo số sĩ quan cho lực lượng CSQG trước nhu cầu mới đó. Điều kiện để được nhập học: Thẩm Sát Viên phải có bằng Tú Tài I, Biên Tập Viên phải có bằng Tú Tài II; tất cả phải qua một kỳ thi tuyển. Thời gian học là 9 tháng cho cấp BTV và 6 tháng cho cấp TSV.<br />Khóa I Sĩ Quan đầu tiên của Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia khai giảng chính thức vào ngày 1 tháng 3 năm 1966 dưới sự chủ tọa của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch UBHPTƯ; nhưng trên thực tế các khóa sinh đã được triệu tập nhập học nhiều đợt sớm hơn từ đầu năm 1966 (28-01-66) trong khi chờ đợi văn kiện chính thức thành lập Học Viện ra đời. Vì vậy thời gian thụ huấn dành cho khóa I đã phải kéo dài tới 9 tháng cho TSV và 1 năm cho BTV, dài hơn qui định gần 3 tháng. Đặc biệt Khóa I còn là khóa duy nhất có 50 nữ SVSQ thụ huấn trong cùng thời gian; tuy nhiên các nữ SVSQ có được giảm bớt phần nào huấn luyện quân sự. Trong suốt thời gian huấn luyện, các sinh viên sĩ quan CSQG – nam cũng như nữ – phải theo chế độ nội trú giống như mọi quân trường khác. Kể từ năm 1972 sau khi qui chế mới của lực lượng CSQG ra đời và được chính thức áp dụng (trong đó lực lượng CSQG mang cấp hiệu giống như quân đội), thời gian huấn luyện các sĩ quan tại Học Viện CSQG đã được điều chỉnh thành 12 tháng và cuối cùng là 18 tháng. Các sĩ quan tốt nghiệp được mang cấp bậc Thiếu Úy. Trong những năm đầu thành lập, Học Viện CSQG tạm thời tọa lạc tại trại Lê Văn Duyệt bên trong Biệt Khu Thủ Đô Sàigòn. Viện Trưởng là chức vụ chỉ huy Học Viện CSQG tương đương với chức vụ Giám đốc Nha có nhiều Sở. Phụ Tá cho Viện Trưởng là các Phó Viện Trưởng và một Ban Tham Mưu gồm có Giảng Sư Đoàn, Liên Đoàn SVSQ, và các Sở Huấn Vụ, Sở Quản Trị, và một số Phòng, Ban biệt lập khác đảm trách các phần vụ chuyên môn. Vị Viện Trưởng Học Viện CSQG đầu tiên là Quận Trưởng Cảnh Sát Đàm Trung Mộc. Ông cũng là một trong những người có công sáng lập ra ngôi trường này. Ông là một trong những cấp chỉ huy ưu tú của ngành CSQG nổi tiếng cả về tài năng và đức độ. Những bộ sách giáo khoa nổi tiếng của ông như Hình Sự Tố Tụng, Hình Luật Đặc Biệt, Cảnh Sát Tư Pháp, v.v.. không chỉ dành riêng cho ngành cảnh sát mà còn được nhiều giới chức ngành tư pháp, tòa án dùng làm tài liệu tham khảo. Mặc dù từng đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong ngành, nhưng ông lúc nào cũng bình dị, tận tụy với công vụ, gần gũi với thuộc cấp và nhất là nổi tiếng thanh liêm. Ông vừa đảm nhiệm chức vụ Viện Trưởng, vừa là giảng sư kiêm nhiệm các môn luật học và cảnh sát tư pháp. Tuy chỉ đảm nhận chức vụ Viện Trưởng Học Viện CSQG cho đến năm 1970, nhưng hầu hết các khóa sĩ quan tốt nghiệp tại Học Viện CSQG đều hết lòng kính mến ông và coi ông như một người Thầy, người Cha hơn là một vị chỉ huy trong ngành. Sau ngày 30-4-1975, ông bị kẹt lại tại Việt Nam, và cũng như bao quân,cán,chính VNCH khác, ông cũng phải chịu cảnh tù đày qua nhiều trại tù cộng sản và đã chết tại trạI Hà Sơn Bình, Bắc Việt, ngày 28 tháng 12 năm 1982 (nhằm ngày 14-11 năm Nhâm Tuất), hưởng thọ 65 tuổi. Mới đây, các cựu SVSQ Học Viện CSQG tại Bắc California đã tổ chức lễ giỗ lần thứ 2 tưởng niệm cố Đại Tá Đàm Trung Mộc rất trọng thể tại San Jose ngày 16-3-2003. Kể từ đầu năm 1969, Học Viện CSQG được dời về trụ sở mới nằm trên đồi Tăng Nhơn Phú gần Trường Bộ Binh Thủ Đức. Trường sở mới được xây cất theo thiết kế của kiến trúc sư Lê Văn Lắm gồm nhiều tòa nhà cao tầng dùng làm phòng ngủ cho SVSQ, khu hành chánh, giảng đường, thư viện, phạn xá, xạ trường, cư xá nhân viên, ... với đầy đủ mọi tiện nghi tối thiểu. Vị Viện Trưởng kế nhiệm và cuối cùng cho đến ngày đau thương 30-4-1975 là Đại Tá Trần Minh Công, ông hiện cư ngụ tại Nam California. Ông nguyên là một Quận Trưởng Cảnh Sát trẻ đã kế tục công việc huấn luyện đào tạo các khóa sĩ quan với nhiều cải cách theo mô hình của một trường huấn luyện sĩ quan cảnh sát vừa quân sự vừa hành chánh như các quốc gia tân tiến. Tính từ ngày thành lập cho đến tháng Tư đen 1975, Học Viện CSQG đã huấn luyện được tổng cộng 6 khóa BTV / TSV theo qui chế cũ và 6 khóa đào tạo sĩ quan cấp Thiếu Úy theo qui chế mới. Khóa Sĩ Quan Học Viện CSQG cuối cùng là KHÓA 12, khai giảng tại Học Viện CSQG vào tháng 1 năm 1975, thụ huấn quân sự 3 tháng tại Rạch Dừa, trở về Học Viện CSQG chừng 1 tuần trước Ngày Quốc Hận 30 tháng 4. Tổng cộng Học Viện CSQG đã đào tạo được khoảng 4500 sĩ quan, chưa kể hàng ngàn sĩ quan và hạ sĩ quan tốt nghiệp những khóa tu nghiệp ngắn hạn và gần một ngàn sinh viên sĩ quan còn đang thụ huấn dang dở. Trước nhu cầu đòi hỏi, nhiệm vụ của người chiến sĩ cảnh sát không chỉ đơn thuần là duy trì an ninh trật tự xã hội, bảo vệ luật pháp quốc gia mà còn thực sự đóng góp vào công cuộc chiến đấu chung bảo vệ Tổ Quốc nhất là trong các công tác bình định tại nông thôn, việc huấn luyện quân sự cho các sinh viên sĩ quan cũng được nâng cao. Thời gian huấn luyện quân sự đã được tăng lên 6 tháng với sự cố vấn và yểm trợ về mặt kỹ thuật của Trường Bộ Binh Thủ Đức và Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Đây cũng là thời gian huấn nhục cho các tân khóa sinh tập làm quen với những chương trình huấn luyện tại Học Viện CSQG. Sau ba tháng huấn nhục, các khóa sinh sẽ chính thức được làm lễ gắn an-pha để kể từ đó họ mới chính thức được gọi là các tân Sinh Viên Sĩ Quan CSQG. Lễ gắn an-pha và lễ mãn khóa là những kỷ niệm đáng ghi nhớ của người SVSQ. Tại những buổi lễ này, đã nhiều lần các SVSQ được vinh dự đón tiếp các vị lãnh đạo quốc gia từ Tổng Thống, Thủ Tướng tới vị chỉ huy cao cấp nhất của ngành là Tư Lệnh CSQG đến chủ tọa và ban hiểu thị. Trong giai đoạn I quân sự, các SVSQ được huấn luyện về vũ khí, tác xạ các loại súng lục, súng học về chiến thuật, võ thuật, địa hình, tản thương, cứu thương, v.v... Ngoài những bài học về lý thuyết, các SVSQ còn có những buổi thực tập ngoài các bãi tập của trường bộ binh Thủ Đức, hoặc những buổi tham quan các đơn vị bạn để học hỏi kinh nghiệm hầu ứng dụng sau này. Sau giai đoạn I quân sự là giai đoạn II huấn luyện chuyên môn. Thời gian sau này các SVSQ sẽ được huấn luyện căn bản về tình báo, về các phương pháp điều tra hình sự, điều tra hành chánh, phương pháp giảo nghiệm, các cuộc hành quân cảnh sát, phượng hoàng, trấn áp bạo động (chống biểu tình), v.v…….. và nhất là những kiến thức chuyên môn về luật pháp như hình sự tố tụng, hình luật đặc biệt, cảnh sát tư pháp, …….. Các giảng sư, giảng viên ngoài một số là những sĩ quan nhiều kinh nghiệm trong ngành còn có những giảng sư thỉnh giảng đang là những giáo sư Đại Học hoặc là các sĩ quan hoặc viên chức các cơ quan ban ngành bạn có liên quan. Giáo sư TS.Nguyễn Văn Canh, Tiến Sĩ Trần An Bài (hiện cư ngụ tại miền Bắc California) đã từng là những giảng sư thỉnh giảng của Học Viện CSQG. Mặc dù chỉ mới được thành lập chưa tròn mười năm tuổi (1966-1975) nhưng Học Viện CSQG đã đóng góp một phần đáng kể vào việc xây dựng và phát triển lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia VNCH. Các sĩ quan do Học Viện CSQG đào tạo với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ đã mang lại một luồng sinh khí mới cho các đơn vị CSQG trên toàn quốc. Họ đã trở thành một lực lượng nòng cốt mang lại hiệu quả cao trong những hoạt động của lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia. Họ đã đóng góp một phần không nhỏ trong những chiến công của ngành CSQG. Chính vì những thành quả ấy, sau ngày 30/4/1975 các cựu SVSQ Học Viện CSQG đã phải trả một giá khá đắt cho những hoạt động của họ trước đó. Hầu hết các cựu SVSQ đều phải trải qua nhiều năm trong những trại tù cải tạo của cộng sản: có những thiếu úy mới tốt nghiệp mà đã ở tù tới 5, 6 năm, một số lớn các sĩ quan xuất thân từ Học Viện CSQG đã phải chịu một thời gian “cải tạo” dài hơn thời gian cảnh nghiệp, một số đã ở tù đến mười bảy năm (thời gian “cải tạo” dài nhất mà Việt Cộng dành cho các quân,cán,chính VNCH),và một số đã bỏ mình trong những trại tù thật khắc nghiệt nầy. Ngày nay, ngoài một số còn kẹt tại quê nhà, các cựu SVSQ Học Viện CSQG hiện lưu lạc định cư rải rác ở khắp nơi trên toàn thế giới cũng vẫn với nhiệt tình của tuổi trẻ như ngày nào, họ đã và đang là những nhân tố tích cực sinh hoạt trong nhiều hội đoàn ái hữu của lực lượng CSQG tại hải ngoại.<br /><br />Toàn Như - Cựu SVSQ Khóa 1</span>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com2tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-3421795521815853612008-03-28T15:22:00.000-07:002008-12-11T03:12:37.461-08:00LD81/BCND va nhung ngay thang tu<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi7p51V40Y9gr14R2ll_JSMvtaFrTcSuEszxCYAUImoNOoKk_Lr13rx9_mLHp2LqxUloHSHlpBIzZWExQ-ojE3r6yhQeU4B3E3P4rOSGfsxWKunFf032vNtOVoPWN-vOPfjmJk-ZB0zcMc/s1600-h/BietCach81.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi7p51V40Y9gr14R2ll_JSMvtaFrTcSuEszxCYAUImoNOoKk_Lr13rx9_mLHp2LqxUloHSHlpBIzZWExQ-ojE3r6yhQeU4B3E3P4rOSGfsxWKunFf032vNtOVoPWN-vOPfjmJk-ZB0zcMc/s400/BietCach81.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213266495432485602" /></a><br /><br /><strong>LĐ81/BCND Và Những Ngày Tháng Tư <br /><br />(Trích đăng từ Đặs San GĐ81/BCND số 3 ngày 1 tháng 7 / 2001)<br /><br />Những chi tiết trong bài này được tóm tắt theo ký ức của các quân nhân thuộc Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhẩy Dù (*) nhằm vẽ lại một góc độ nhỏ nhoi của chung cuộc đau thương bức tử mà những người lính LĐ81/BCND nói riêng, và của toàn thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung đã phải gánh chịu vào những ngày tháng Tư năm 1975 và những năm sau đó...<br /><br /><br />--------------------------------------------------------------------------------<br /><br /> Suốt năm 1974 cho đến ngày 30/4/75, Liên Đoàn 81/BCND tăng phái cho Quân Đoàn III để hoạt động trong các chiến khu Dương Minh Châu, chiến khu D, và các vùng rừng núi thuộc các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Bình Long, Phước Long, Bình Tuy, Phước Tuy, Long Khánh, và Biên Hòa. <br /><br />Nhiệm vụ của Liên Đoàn 81 là thả các toán thám sát vào hoạt động những nơi mà những đơn vị khác ít khi hành quân vào vì lực lượng địch quá đông, vì điạ thế hiểm trở, vì ngoài tầm hoạt động của pháo binh, vì xa nơi hoạt động của các đơn vị bạn, v.v. Các toán thám sát có cái lợi điểm là quân số ít (mỗi toán chỉ có 6 người), dễ dàng lẫn tránh khi gặp địch, dễ dàng thoát hiểm khi bị địch truy kích vì đã được huấn luyện kỹ về mưu sinh thoát hiểm. Nhiệm vụ các toán là thu lượm tin tức hoạt động của địch để báo cáo lên cấp trên, tùy theo mục tiêu, các toán có thể tổ chức đột kích, phục kích bắt tù binh khai thác tin tức. Có những mục tiêu ngoài khả năng của toán và theo yêu cầu của Quân Đoàn, Liên Đoàn 81 thỉnh thoảng cũng mở những cuộc đột kích vào hậu tuyến địch như trận phục kích tiêu diệt đoàn xe tiếp tế của địch ở thung lũng Ashau thuộc tỉnh Thừa Thiên năm 1968 và ở vùng tam biên ( biên giới Việt, Miên, Lào) thuộc tỉnh Kontum năm 1972. Ngoài nhiệm vụ phục kích, đột kích nói trên, tùy theo tình hình Liên Đoàn 81 còn có thể tập trung lại để hành quân phối hợp với các đơn vị khác như ở tại thành phố An Lộc năm 72, Quảng Trị năm 73, và Phước Long năm 75.<br /><br />LĐ81/BCND trong trận Phước Long <br /><br /> Ngày 3 tháng 1 năm 75, Liên Đoàn 81 được lệnh tăng viện cho tỉnh lỵ Phước Long, trung tá Vũ xuân Thông và thiếu tá Nguyễn Sơn chỉ huy 300 quân chuẩn bị nhảy vào Phước Long. Cuộc đổ quân được chia ra làm hai đợt, nhưng ngày hôm đó không thực hiện được vì phi trường Biên Hòa bị pháo kích khá nặng, một số trực thăng bị hư hại, một số phi công có nhà ở ngoài không vào phi trường sớm được. Giờ xuất quân ấn định là 9 giờ sáng nhưng mãi đến chiều, số trực thăng tập trung ở phi trường Long Bình để đưa BCD nhẩy vào chiến trận Phước Long mới đủ túc số ấn định. Đúng 2 giờ chiều, 30 trực thăng cùng cất cánh. Sau một giờ bay, chiến trận Phước Long hiện ra trước mắt vị CHT/LĐ81. Đỉnh núi Bà Rá đã lọt vào tay Việt Cộng. Từ đó, pháo địch rót vào quân ta không một viên nào ra ngoài mục tiêu, tất cả thành phố như chìm trong biển lửa. Có thể thả BCD xuống được nhưng sao giờ đổ quân đó, các phi tuần oanh tạc vẫn chưa thấy xuất hiện để làm tê liệt địch quân ở núi Bà Rá? Qua hai vòng bay ngoài thành phố Phước Long để tránh cao xạ phòng không, vẫn không thấy phi tuần đến, lại thêm trời chiều Phước Long với khói súng mù mịt khắp thành phố, với núi rừng âm u bao quanh Phước Long, màn đêm kéo đến những nơi này sớm hơn ở đồng bằng. Nếu thả BCD xuống vào khoảng 3 giờ 30 chiều thì với khoảng cách từ sân bay Long Bình đến Phước Long là gần 100 cây số, sớm nhất là phải 5 giờ 30 chiều đợt đổ quân thứ hai mới đến kịp. Giờ đó, màn đêm đã hoàn toàn phủ kín Phước Long, trực thăng và phi cơ oanh kích đành bó tay, chắc chắn anh em BCD đã thả xuống đợt đầu không thể nào đương đầu với làn sóng người "sinh Bắc tử Nam" được. Không thể hy sinh BCD ngu xuẩn như thế, CHT/LĐ81 quyết định không thả quân BCD và sẵn sàng lãnh nhận trách nhiệm và mọi hậu quả.<br /><br /> Ngày 4/1/75, trước 9 giờ đã có đầy đủ số trực thăng như dự định nên 300 quân đã vào được Phước Long với một số tổn thất tương đối. 300 quân nhảy vào một chiến trường mà hết 90% vị trí phòng thủ đã lọt vào tay địch quân cộng với tinh thần quân trú phòng quá suy sụp, hàng ngũ chiến đấu không còn nguyên vẹn thì giờ phút khai tử Phước Long chẳng còn bao lâu nếu không được tiếp tục đưa thêm quân tăng viện vào. Phần lực lượng còn laị của Liên Đoàn 81 đã sẵn sàng để vào tiếp viện nhưng lệnh trên không cho nên ngày 6/1/75, Phước Long đã hoàn toàn lọt vào tay Cộng quân. Liên Đoàn 81 đã xử dụng trực thăng cứu thoát được trên 100 quân ở xung quanh rừng Phước Long, trong số này có 7 quân nhân thuộc đơn vị bạn, số còn lại kể như bị chết, bị bắt hay mất tích.<br /><br /> Trớ trêu thay, sau khi Phước Long thất thủ, Không quân đã phải ra tòa vì tội "mất Phước Long", đó là một quyết định bất công. Đúng ra là BTL/QĐIII, BTL/KQ và chính CHT/LĐ81 phải ra tòa mới đúng. Đúng hơn nữa, người đã quyết định đưa BCD vào "biển lửa" khi đã có ý định bỏ rơi Phước Long mới là kẻ có tội. Khi KĐ43 Chiến Thuật phải ra điều trần trước hội đồng tướng lãnh, CHT/LĐ81 đã đến buổi họp, ông xin được phát biểu trước và sau đó vội vã ra về vì Phước Long mất, bộ chỉ huy BCD chỉ mới cứu ra được trên 100 quân, trong đó có trung tá Vũ Xuân Thông, CHT Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật, thiếu tá Nguyễn Sơn (CHP/BCH/CT), đại úy Trương Việt Lâm (biệt đôi trưởng BĐ 811), và đại úy Lê Đắc Lực (biệt đội trưởng BĐ 814), (những vị này hiện đang ở Hoa Kỳ), còn trên 100 BCD khác nữa đang cần có CHT/LĐ81 trên các phi vụ tìm kiếm. Gần 9 năm liên tục lặn lội trên các chiến trường với anh em BCD, CHT/LĐ81 nhận thấy Không Quân, nhất là anh em trực thăng đã thường cùng chết chung với BCD, do đó CHT/LĐ81 đã xin sẵn sàng nhận tội làm mất Phước Long trước tòa án binh chứ không phải Không Đoàn 43 Chiến thuật.<br /><br /> Xin được trích đăng một đoạn do Không Quân Đào Vũ Anh Hùng đã viết trên đặc san Lý Tưởng của Không Quân liên quan đến "sự kiện Phước Long":<br /><br />Đại tá Triệu, xước danh "pilot Thái Bình" mà Dương Hùng Cường mô tả là "lái máy bay trước khi biết lái xe đạp", Không Đoàn Trưởng KĐ43 Chiến Thuật yêu cầu tôi đại diện Không Đoàn, làm "luật sư" trong buổi điều trần trước hội đồng tướng lãnh. Đại tá Phan Văn Huấn, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù có một thiếu úy tùy viên đi theo, vào phòng họp sau cùng. Ông xin được nói trước với lời lẽ hiên ngang đầy khí phách: <br />- "Mất Phước Long, lý do tại sao, quý vị đều biết nhưng không ai nói ra. Phần BCD 81, chúng tôi vào chỗ chết đã đành, bởi nghề nghiệp chúng tôi là chọn chỗ chết để đi vào. Riêng với anh em Không Quân, các phi hành đoàn trực thăng đã làm quá bổn phận của họ, chết lây với chúng tôi thật tội nghiệp. Nay đưa họ ra tòa là điều tôi cho là vô lý. Nếu có lỗi làm mất Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quý vị ở lại tiếp tục họp và cho tôi biết kết quả. Tôi xin phép ra về vì còn nhiều việc phải làm".<br /><br /> Đại tá Huấn đứng nghiêm chào và quay ngắt đi ra. Oâng đến như một cơn gió và ông đi cũng như cơn gió. Ông xuất hiện chưa đầy năm phút, nói một lời ngắn ngủi nhưng tôi ghi nhớ mãi cái giây phút lịch sử và hình ảnh đó của ông. Hội đồng tướng lãnh ra về, giao việc điều tra cho Đại tá Nguyễn Huy Lợi, Nha Quân Pháp, ở lại làm việc. Tôi đã làm trọn vẹn vai trò "luật sư", biện hộ cho Không Đoàn 43 Chiến Thuật. Ngày di tản, gặp lại Đại tá Nguyễn Huy Lợi trên boong tầu Mỹ, trước đông anh em, ông đã khen tôi không tiếc lời về việc tôi dám nói ra sự thật vụ mất Phước Long.<br /> <br /><br /> <br /><br /> Bộ Chỉ Huy 3 Chiến Thuật của LĐ81/BCND tại bộ Tổng Tham Mưu<br /><br /> Công việc thả các toán thám sát vào sâu trong các vùng hoạt động của Cộng quân để thu thập tin tức vẫn được tiếp tục như trước. Đến ngày 26 tháng 4 năm 75, Liên Đoàn 81 được lệnh đưa một bộ chỉ huy chiến thuật khoảng 1000 quân về tăng cường phòng thủ bộ Tổng Tham Mưu. Bộ chỉ huy 3 chiến thuật do thiếu tá Phạm châu Tài nhận lãnh trách nhiệm này. Thiếu tá Phạm châu Tài đặt bộ chỉ huy ở cao ốc trước cổng bộ Tổng Tham Mưu và chia quân bố trí những điểm trọng yếu xung quanh bộ Tổng Tham Mưu như sân banh quân đội, nghĩa trang Bắc Việt, ngã năm quân khuyển, sân golf, v.v. Riêng việc bố phòng bên trong hàng rào bộ Tổng Tham Mưu thì do quân sĩ cơ hữu của bộ Tổng Tham Mưu đảm trách.<br /><br /> Ngày 30 tháng 4 năm 75, Cộng quân từ hướng ngãû ba ông Tạ tiến về ngã tư Bảy Hiền thì bị chận đánh bởi hậu cứ Sư đoàn Nhảy Dù, từ lăng Cha Cả đến cổng bộ Tổng Tham Mưu thì gặp sự chống trả của LĐ81 Biệt Cách Dù và Nha Kỹ Thuật. Lực lượng địch gồm có bộ binh và chiến xa được pháo binh yểm trợ, tuy địch đông và mạnh như thế nhưng địch vẫn không dập tắt được sức kháng cự của Nhảy Dù, Biệt Cách Dù, và Nha Kỹ Thuật. Mặc dầu lệnh tổng thống Dương văn Minh đã phát đi từ sáng sớm, kêu gọi QLVNCH ngưng chiến và giao nạp vũ khí cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Cuộc điện đàm giữa thiếu tá Phạm châu Tài với chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh và tổng thống Dương văn Minh sau này đã được thiếu tá Phạm châu Tài vắn tắt lại như sau:<br /><br /> 9:00 giờ sáng ngày 30-4-75 Bộ chỉ huy 3 chiến thuật của LĐ81/BCND đang quần thảo với Việt Cộng trước cổng bộ Tổng Tham Mưu ở Lăng Cha Cả thì lệnh đầu hàng của tổng thống Dương văn Minh đã ban ra. Tôi chạy vào văn phòng trong bộ TTM mà đêm hôm trước tôi đã họp với tướng Vĩnh Lộc, nhưng những người lính cơ hữu gác ở đó cho biết tướng Vĩnh Lộc đã rời bộ Tổng Tham Mưu từ 6:00 giờ sáng. Tất cả các tướng lãnh và các sĩ quan mang cấp bậc đại tá đã họp trong phòng này với tôi vào đêm 29 tháng 4 đều vắng mặt. Tôi bốc điện thoại lên quay số của văn phòng Phủ Tổng Thống để được đàm thoại với tổng thống Dương văn Minh, tôi hết sức ngạc nhiên khi người trả lời xưng danh là chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh. Tôi nói muốn được nói chuyện với tổng thống Dương văn Minh, tướng Hạnh hỏi lại tôi là ai? Tôi trả lời:" Tôi là Th/tá Phạm châu Tài, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy 3 chiến thuật của Liên Đoàn 81/ Biệt Cách Dù đang đóng quân ở Bộ Tổng Tham Mưu, tướng Hạnh đã biết tôi vì tướng Hạnh cũng có mặt trong buổi họp ở BTTM vào đêm 29/4/75 nên khoảng vài giây đồng hồ sau tướng Hạnh đưa diện thoại cho tổng thống Dương văn Minh. T/t Minh nói:<br /><br /> -Đại tướng Dương văn Minh tôi nghe đây, có chuyện gì đó? <br /><br />Tôi mới trình bày với T/t Minh :" Tôi là chỉ huy trưởng cánh quân đang tử chiến với Việt Cộng ở bộ Tổng Tham Mưu, tôi đang cố liên lạc với bộ TTM thì lệnh ngưng chiến đã ban ra và quân của Việt Cộng vẫn còn đang tiến về thủ đô. Tôi vào trong bộ Tổng Tham Mưu thì không còn một tướng lãnh nào ở đây, họ đã bỏ chạy hết do đó tôi muốn nói chuyện với tổng thống để xin quyết định." T/t Minh trả lời rằng:<br /><br /> -Các em chuẩn bị bàn giao đi.<br /><br /> -Có phải là đầu hàng không? Tôi hỏi lại.<br /><br /> -Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng của Việt Cộng đang tiến vào dinh Độc Lập. T/t Minh trả lời. <br /><br /> Tôi mới nói rằng:" Nếu xe tăng của Việt Cộng tiến về dinh Độc Lập thì chúng tôi sẽ đến cứu tổng thống, nếu tổng thống ra lệnh đầu hàng thì tổng thống có chịu trách nhiệm với hơn 1000 quân đang tử chiến ở Bộ Tổng Tham Mưu hay không?".<br /><br /> T/t Minh trả lời:" Tuỳ ý các anh em." xong cúp máy....<br /><br /> Mặc dù đã có lệnh đầu hàng của tổng thống Dương văn Minh nhưng sự chiến đấu của nhiều đơn vị thuộc QLVNCH vẫn tiếp tục. Diễn tiến của bộ chỉ huy 3 chiến thuật thuộc LĐ81/BCND kể từ ngày 29/4/75 được đúc kết như sau:<br /><br /> 12:30 giờ trưa ngày 29/4/75, trung đội 1 do th.úy Nguyễn công Danh thuộc biệt đội 819 đã giải vây và bảo vệ 2 chuyến xe buýt đang bị cướp có võ trang uy hiếp tại cổng phi trường Tân Sơn Nhất. Sau khi ổn định tình hình trung đội 1 đã hộ tống 2 chuyến xe này vào phi trường. Hành khách lên phi cơ, và phi cơ cất cánh lúc 2:45 phút chiều. Đây cũng là chuyến phi cơ cuối cùng cất cánh tại phi trường Tân Sơn Nhất vào thời điểm đó. Sau đó trung đội 1 trở về phối trí với biệt đội 819 do Đại úy Trương việt Lâm chỉ huy đang rải quân ở trường Sinh Ngữ Quân Đội và Lục Quân Công Xưởng. Đại úy Lâm đã cho các quân nhân biết xử dụng thiết giáp M113 lái 3 thiết giáp M113 còn mới tinh chạy ra khỏi công xưởng để lập tuyến phòng thủ bên ngoài.<br /><br /> Trong đêm 29/4/75 Đại úy Nguyễn Hiền nhận lệnh chỉ huy đoàn quân xa chuyên chở những quân dụng nặng, và tải thương binh của LĐ81/BCND từ Biên Hoà trở về trại hậu cứ của LĐ81/BCND là trại Bắc Tiến ở Trung Chánh. lúc 3 giờ sáng ngày 30/4/75. Khi đoàn quân xa đến cầu Bình Phước thì Địa Phương Quân gác đầu cầu cho biết trại Bắc Tiến và các cơ sở quân sự trong vùng đó đã bị VC chiếm đóng. Đ/úy Hiền liền cho đoàn quân xa đổi hướng tiến đến cầu Bình Triệu và tìm đường về bộ Tổng Tham Mưu để sát nhập lại với bộ chỉ huy 3 chiến thuật của LĐ81/BCND đang cố thủ tại đó. Đ/úy Hiền bắt tay liên lạc với BCH/3/CT của LĐ81/BCND lúc 5:30 sáng.<br /><br /> Cùng ngày 30/4/75 lúc 2 giờ sáng, trận chiến tại cổng phi trường Tân Sơn Nhất, bộ Tổng Tham Mưu vẫn tiếp tục giữa VC và các đơn vị của LĐ81/BCND. Các chốt của LĐ81/BCND phía sau cổng bộ Tổng Tham Mưu đã dùng lựu đạn mini để ngăn chặn các toán đặc công của Việt Cộng đang tìm cách đột nhập. Lựu đạn và chất nổ được xử dụng tối đa, sau 1 giờ rưỡi giao tranh VC không tiến được đành rút lui khỏi cổng sau của bộ Tổng Tham Mưu. <br /><br /> Đến 6 giờ sáng 5 chiến xa T54 và đoàn quân tùng thiết của VC trên đường tiến vào Sài Gòn đã bị lực lượng của Sư Đoàn Nhẩy Dù và Liên Đoàn 81/BCND chận đánh trước cổng phi trường Tân Sơn Nhất, 4 chiến xa của VC bị phá huỷ, chiếc sau cùng quay trở lại chạy thoát.<br /><br /> Các biệt đội của LĐ81/BCND trấn thủ trước cổng bộ TTM là biệt đội 817 do trung úy Lê văn Lợi chỉ huy, và biệt đội 818 do đại úy Nguyễn Ánh chỉ huy.<br /><br />7 giờ sáng một đoàn chiến xa khác của Việt Cộng hướng vào cổng chính bộ Tổng Tham Mưu.. Một toán của LĐ81/BCND phòng thủ trên cao ốc đã dùng M72 bắn cháy chiếc đầu tiên, chiếc thứ 2 đã dùng súng đại pháo trên pháo tháp bắn vào cao ốc làm tê liệt tuyến phòng thủ đó, nhưng chiến xa này cũng bị bắn cháy trước cổng bộ Tổng Tham Mưu do quân nhân thuộc biệt đội 817 của trung úy Lê văn Lợi. <br /><br />Sau 10 giờ sáng VC đã tràn ngập vào phi trường Tân Sơn Nhất, có một xe Toyota Corona dân sự chạy đến cổng bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị quân nhân LĐ81/BCND chận lại không cho vào. Trên xe có hai người đàn ông, một người tên Quân mặc quân phục của Quân Vận mang cấp bậc thiếu tá, người kia mặc thường phục xưng là nhà báo muốn vào bộ TTM để treo cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Đại úy Nguyễn Hiền đã cho binh sĩ tịch thu cờ và bắt giữ 2 nhân vật đó. Sau khi hỏi cung được biết họ chỉ là thành phần đón gió trở cờ nên BCH 3 chiến thuật đã thả 2 người đó trước cổng bộ TTM.<br /><br /> 10:30 sáng đại úy Nguyễn hữu Hưng chỉ huy phó bộ chỉ huy 3 chiến thuật của LĐ81/BCND và đại úy Nguyễn Hiền đi đến quyết định rút đơn vị khỏi bộ TTM, trở về Biên-Hoà để tái hợp với bộ chỉ huy hành quân của LĐ81/BCND. Trên đoàn quân xa gồm những quân nhân của tất cả các đơn vị còn muốn chiến đấu, trong đoàn quân xa này được tăng cường thêm 8 chiếc thiết giáp M41 và M113 từ phi trường Tân Sơn Nhất về phối hợp. Nhưng khi đoàn xe đang di chuyển trên đường Võ di Nguy, Phú Nhuận thì bị VC phục kích, chiếc quân xa đầu tiên bị bắn cháy, đoàn xe bị nghẹt lại, đại úy Hưng cho lệnh anh em bỏ đoàn quân xa và tìm đường thoát thân để tránh sự trả thù.<br /><br /> 1 giờ trưa ngày 30/4/75. Riêng biệt đội 819 của đại úy Trương việt Lâm sau khi tập họp được quân nhân của biệt đội, các anh em đã chất vũ khí, đạn được từ Lục quân công xưởng lên 2 xe GMC bít bùng để chạy về Biên Hoà hy vọng kết hợp với bộ chỉ huy Liên Đoàn 81/BCND tại đó. Nhưng khi 2 chiếc quân xa này chạy đến ngã 5 Hạnh Thông Tây bị Việt Cộng chặn lại. Dân chúng bên đường bu quanh 2 chiếc GMC kêu gọi anh em biệt đội 819 bỏ súng, họ nói :"Hết chiến tranh rồi, các anh buông súng đi, Biệt Cách Dù buông súng đi..." Biệt đội 819/LĐ81/BCND đã giao nạp vũ khí tại ngã 5 Hạnh Thông Tây lúc 2:15’ chiều 30/4/1975. Anh em biệt đội 819/LĐ81/BCND chia tay nhau tại đó.<br /><br /> Để hiểu rõ tình hình lúc bấy giờ ở dinh Độc Lập như thế nào, xin mời quý vị đọc một bài báo của Việt Cộng đăng ở Saigon ngày 30/4/1995: Ba'o Viet-Cong<br /><br />Bộ chỉ huy Liên Đoàn 81/BCND và 2 bộ chiến thuật ở Biên Hoà<br /><br /> Thủ đô VNCH trong giờ phút đó chỉ còn 2 điểm kháng cự ở ngã tư Bảy Hiền và Lăng Cha Cả. Chẳng bao lâu sau đó, tiếng súng cả hai nơi không còn nổ nữa, anh em rời vũ khí và chia tay nhau mỗi người mỗi ngả!<br /><br /> Bộ chỉ huy 1 chiến thuật do tr/tá Vũ xuân Thông chỉ huy, bộ chỉ huy 2 chiến thuật do th/tá Nguyễn Sơn chỉ huy cùng với bộ chỉ huy Liên Đoàn 81 do đại tá Phan văn Huấn chỉ huy với quân số vào khoảng 2000 quân nhân đang đóng quân ở phía bắc phi trường Biên Hòa. Ngày 28 tháng 4/75 lúc 12 giờ trưa, đ/tá Huấn được lệnh tr/tướng Nguyễn văn Toàn gọi về bộ tư lệnh QDIII họp khẩn, nhưng Liên Đoàn 81 không còn có trực thăng tăng phái ngày hôm đó và đường xe đến bộ tư lệnh QDIII không còn chạy được nên tr/tướng Toàn đã cho trực thăng đến đón đ/tá Huấn về họp. Tr/tướng Toàn chủ tọa buổi họp với các sĩ quan gồm có: đ/tá Lưu Yểm tỉnh trưởng Biên Hòa, tr/tá Lô tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 7 Nhảy Dù, đ/tá Phan văn Huấn chỉ huy trưởng Liên Đoàn 81/BCND và chừng 20 sĩ quan của bộ tư lệnh QDIII. <br /><br /> Trong phòng họp không khí thật căng thẳng và hồi hộp, tr/tướng Toàn nói: "Ngày mai (29/4/75) chúng ta rút khỏi Biên Hòa để về phòng thủ tuyến Thủ Đức, các đơn vị tuần tự rút lui, nhưng phải có trật tự không được lộn xộn như ở vùng I và vùng II; Liên Đoàn 81/BCND là lực lượng đi sau cùng (đoạn hậu) và có nhiệm vụ phá hủy chiếc cầu trên xa lộ Đại Hàn gần phi trường Biên Hòa". <br /><br /> Sau khi họp ở QĐIII về, đêm 28/4/75 Liên Đoàn 81/BCND liền di chuyển vào phi trường Biên Hòa bố trí quân ở đó. Riêng biệt đội 812 do đại úy La-Cao chỉ huy có nhiệm vụ phải giữ an-ninh và kiểm soát lưu thông trên cầu Mới cho đến khi các đơn vị bạn và LĐ81/BCND qua khỏi cầu để tiến về Thủ Đức lập tuyến phòng thủ. Sáng 29/4/75 đơn vị di chuyển qua cầu xa lộ Đại Hàn, rút khỏi thành phố Biên Hòa đúng theo lệnh tr/tướng Toàn đã nói (phi trường Biên Hòa do sư đoàn 3 Không Quân trấn đóng nhưng Không Quân đã rút đi từ mấy ngày trước). Đúng 8 giờ sáng thì Liên Đoàn 81/BCND qua khỏi cầu Mới và biệt đội 812 cùng toán công-binh của đại úy Hoàng tăng phái cho Liên-Đoàn 81 là đơn vị sau cùng qua cầu và đã hoàn tất nhiệm vụ dùng chất nổ phá chiếc cầu đó. Đơn vị vừa qua khỏi cầu thì nghe lệnh ông Vũ văn Mẫu, tân thủ tướng VN yêu cầu người Mỹ rút ra khỏi VN trong vòng 24 tiếng đồng hồ. <br /><br /> Đây là một sự kiện quan trọng diễn ra trong giờ phút hấp hối của miền Nam. Trước tình thế đó, Liên Đoàn 81/BCND liền rút thẳng vào rừng Cò Mi bố trí và tìm cách liên lạc với thượng cấp và các đơn vị bạn để hiểu rõ tình hình, ngõ hầu chọn lựa đường lối hành quân thích hợp cho Liên Đoàn 81/BCND. Suốt đêm hôm đó, bộ chỉ huy và ban truyền tin của Liên Đoàn 81/BCND đã cố gắng bắt liên lạc với các đơn vị bạn qua các tần số nhưng không có kết quả! Sáng 30/4/75, Liên Đoàn 81/BCND men theo đường rừng di chuyển dần về hướng Thủ Đức để hy vọng gặp được đơn vị bạn nhưng hoàn toàn tuyệt vọng. Trên đường di chuyển LĐ81/BCND chỉ thỉnh thoảng bắt gặp các quân trang quân dụng của các đơn vị bạn bỏ lại! Khi Liên Đoàn 81/BCND đến gần lăng chú Hỏa (gần núi Châu Thới), đơn vị dừng quân và tung các toán thám sát ra các xa lộ Lái Thiêu, Đại Hàn quan sát tình hình. <br /><br /> Các toán thám sát báo về bộ chỉ huy LĐ81/BCND quân xa của Việt Cộng đang chạy công khai trên các trục lộ mà không gặp một sự kháng cự nào của đơn vị trách nhiệm trong vùng. Tất cả các nơi như là đều đã rã ngũ hết rồi!<br /><br /> Sau đó Đ/tá Huấn liền họp các cấp chỉ huy và nói "Chúng ta đã cố gắng liên lạc với cấp trên và các đơn vị bạn nhưng tất cả đều vô vọng, bây giờ tình hình như thế này xin anh em cho biết ý kiến." Đại đa số ý kiến anh em đều nói:"một con én không làm nổi mùa xuân, hơn nữa chúng ta không nhận được lệnh gì của thượng cấp hết, nếu bây giờ chúng ta vẫn tiếp tục chiến đấu mà không còn đơn vị yểm trợ thì cuối cùng đơn vị ta sẽ bị Việt Cộng tập trung tiêu diệt mà thôi, không còn cách nào khác chúng ta phải bắt buộc làm theo lệnh của tổng thống Dương văn Minh."<br /><br /> Đ/tá Huấn yêu cầu các cấp chỉ huy tập họp anh em xung quanh một ngôi mộ có gò mả khá cao. Đứng trên gò mả đ/tá Huấn bùi ngùi nói trước hàng quân : " Chúng ta sinh trưởng ở miền Nam, chúng ta có bổn phận phải bảo vệ miền Nam, bây giờ chúng ta thua rồi, chúng ta phải cay đắng tuân lệnh tổng thống Dương văn Minh, giao nạp vũ khí cho Việt Cộng. Thưa anh em, chúng ta là một đơn vị ưu tú của QLVNCH, qua bao nhiêu năm chiến đấu bên nhau, trong giờ phút lịch sử này, chúng ta phải chứng tỏ là một đơn vị có kỷ luật không như những đội quân ô hợp, vậy yêu cầu anh em theo tôi tiến ra xa lộ Đại Hàn, các biệt đội sắp hàng tư và di chuyển về hướng Saigòn để tiếp xúc với đơn vị Việt Cộng mà bàn giao vũ khí rồi anh em chúng ta giải tán và chia tay nhau; Xin anh em nhớ rằng, anh em không có tội gì cả, vì anh em phải tuân hành theo lệnh của tôi, tôi sẵn sàng nhận tội và tôi sẽ đi đầu, nếu Việt Cộng có bắn thì họ sẽ bắn tôi trước".<br /><br /> Trên xa lộ Đại Hàn gần lăng chú Hỏa, quân nhân của Liên Đoàn 81/BCND sắp hàng tư tiến về hướng Saigòn. Hai bộ chỉ huy chiến thuật và bộ chỉ huy Liên Đoàn 81 quân số gần 2000 quân nhân, đội hình hàng tư dài hơn cây số. Đoàn quân yên lặng di chuyển trên xa lộ, không khí thật ngột ngạt khó thở, những người lính súng đạn còn trên tay nhưng cái lệnh đầu hàng đã làm cay cay lòng mắt . Những hình ảnh nhạt nhoà của những người dân đứng trước mái nhà tranh nhìn đoàn quân não nề tiến bước. Khi LĐ81/BCND đang di chuyển trên xa lộ Đại Hàn thì xe Việt Cộng cũng di chuyển ngược xuôi bên đội hình Liên Đoàn 81/BCND, các cán binh Cộng Sản trên xe nhìn Liên Đoàn 81/BCND với nét mặt tò mò và ngạc nhiên khi thấy quân nhân của LĐ81/BCND trên tay vẫn còn mang vũ khí. Khi Liên Đoàn 81/BCND đã di chuyển khá xa thì có 2 xe từ hướng Saigòn chạy đến, trên mỗi xe có đặt máy quay phim. Việt Cộng quay phim từ đầu đội hình cho đến cuối và ngược lại từ cuối lên đầu đội hình, Việt Cộng quay nhiều về toán quân đi đầu gồm nhiều cấp chỉ huy của Liên Đoàn 81/BCND.<br /><br /> Khi Liên Đoàn 81/BCND dừng lại cho anh em nghỉ ngơi thì đơn vị Việt Cộng đến tiếp xúc và quân nhân Liên Đoàn 81/BCND để vũ khí tại chỗ và giải tán....<br /><br /> Xin viết thêm là khi Liên Đoàn 81/BCND đang di chuyển trên xa lộ thì thấy rất nhiều thanh niên từ hướng Saigòn chạy ngược về Biên Hòa, đầu trần, đi chân không, mình mặc áo quần lót, tay cầm các giấy tờ tùy thân và tiền bạc cá nhân; đ/tá Huấn đi đầu đội hình liền kéo một anh chạy gần và hỏi: "Các anh chạy đi đâu mà ăn mặc như thế? anh đó liền trả lời: chúng tôi là lính, Việt Cộng tước vũ khí rồi bắt phải cởi áo quần giày dép và cho về nhà." Chính đó là lý do mà khi tiếp xúc giao nạp vũ khí cho Việt Cộng, đ/tá Huấn đã yêu cầu Việt Cộng đừng bắt anh em 81 Biệt Cách Dù làm như thế vì sợ anh em chạm tự ái vì bị sỉ nhục mà sẽ không tuân theo lệnh giao nạp vũ khí; Việt Cộng đã đồng ý và cho xe đến chở các sĩ quan về nhà.<br /><br /> Riêng biệt đội 812 do đại úy La-Cao chỉ huy, binh sĩ dưới quyền đã được đ/úy La-Cao chỉ thị:"Các anh em khi tháo băng đạn ra khỏi súng nhưng nên để lại một viên trong buồng đạn để tránh sự tấn công bất ngờ hoặc trường hợp khi gặp Việt-Cộng nếu bị sỉ nhục quá đáng nếu anh em không dằn lòng được, anh em có thể xử dụng viên đạn cuối cùng."<br /><br /> Sau đó có 2 chiếc xe đến chở các sĩ quan về Saigòn, khi xe chạy đến làng đại học Thủ Đức, đ/tá Huấn yêu cầu xe dừng lại và nói với Việt Cộng: "sĩ quan chúng tôi có nhà ở trong khu này". Thật tình thì anh em sĩ quan đâu có nhà ở trong khu sang trọng đó, vì anh em sĩ quan không muốn cho Việt Cộng biết nhà ở của mình. <br /><br /> Tại nơi đây anh em sĩ quan đã ngậm ngùi chia tay nhau!<br /><br />Biệt Đội 813/LĐ81/BCND tại Tây Ninh <br /><br /> Giữa tháng 3/75, đại bộ phận Liên Đoàn 81/BCND do Trung Tá Chỉ Huy Phó Nguyễn Văn Lân chỉ huy được điều động lên Tây Ninh để cùng với Sư Đoàn 25 phòng thủ vùng Tây Bắc Sài Gòn (Tư Lệnh Sư Đoàn 25 lúc đó là Cựu Thiếu Sinh Quân Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá). <br /><br /> Khi Liên Đoàn 81/BCND đến Tây Ninh, Căn Cứ Hành Quân đóng tại Xóm Chàm và Biệt Đội 813/BCND là thành phần trừ bị, có nhiệm vụ phòng thủ vòng ngoài Căn Cứ Hành Quân. Khoảng một tuần sau, Biệt Đội 813 được điều động lên Trảng Sụp, tiền đồn cực Tây của Tỉnh Tây Ninh để thay thế cho Biệt Đội 816/BCND của Đại Uý Lễ. <br /><br /> Cuối tháng tư, tình hình Tỉnh Tây Ninh rất căng thẳng, Tr/Tướng Toàn ra lệnh cho Liên Đoàn 81/BCND phải duy trì một Biệt Đội ở đó để giữ vững tinh thần quân sĩ tại tỉnh Tây Ninh khi đại bộ phận của LĐ81/BCND về Biên Hoà để nhận lệnh hành quân mới. Biệt Đội 813/BCND do Tr/Úy Lai Đình Hợi chỉ huy nhận lãnh trách nhiệm này. Trước khi rời Tây Ninh Tr/Tá Lân giao cho Tr/Úy Hợi một bao thư niêm mật và nói chỉ được mở khi hữu sự.<br /><br /> Lực lượng tại Tây Ninh lúc đó, ngoài các đơn vị cơ hữu của Tỉnh, chỉ còn có Trung Đoàn 49 của Sư Đoàn 25, do Trung Tá Khoa làm Trung Đoàn Trưởng và Biệt Đội 813/BCND. <br /><br /> Vài ngày sau, Đại Tá Tài, Tỉnh Trưởng Tỉnh Tây Ninh, ra lệnh đưa Biệt Đội 813 về phòng thủ dinh Tỉnh Tây Ninh. Vào thời điểm này, nhiều sự kiện xẩy ra như: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Tổng Thống Hương giao quyền cho Đại Tướng Minh. <br /><br /> Sáng ngày 29/4/75, Tr/Tá Khoa báo cho Tr/Úy Hợi biết: Đã mấy ngày qua, ông mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 25. Biệt Đội 813 cũng mất liên lạc truyền tin với Trung Tâm Hành Quân Liên Đoàn 81/BCND đang đóng ở Suối Máu và cả với hậu cứ tại Ngã Tư Anh Sương. Tr/Tá Khoa cho Tr/Úy Hợi biết thêm là ông đã họp bàn với Đại Tá Tài và một số các đơn vị trưởng của Tỉnh là ông có ý định ngày mai (30/4/75) ông sẽ rút về Sài Gòn, nếu Sài Gòn cũng mất, ông sẽ về Vùng 4 để tiếp tục chiến đấu vì ông có một số bạn bè ở đó. Tr/Tá Khoa hỏi Tr/Úy Hợi xin giúp ông một điều. Ông nói:<br /><br /> “Chiều nay, khi Trung Uý đi họp, (chiều nào Đại Tá Tài cũng chủ tọa buổi họp gồm các đơn vị trưởng của Tỉnh, và các đơn vị biệt phái) giữa buổi họp, Trung Uý cho một toán Biệt Cách Dù ập vào phòng họp dùng súng uy hiếp và ra lệnh cho tôi rút về Sài Gòn.”<br /><br /> Trung úy Hợi nói: “Tôi không làm được việc này vì nếu chưa có lệnh của Đại Tá Huấn thì tôi sẽ không rút, cho dù Tây Ninh chỉ còn mỗi Biệt Đội 813/BCND của tôi.”. Tr/Tá Khoa cố gắng thuyết phục Tr/Úy Hợi cùng rút và giải thích là mình rút để có thể tiếp tục chiến đấu chứ không phải để chạy. Tr/Úy Hợi hẹn sẽ trả lời ông vào buổi chiều.<br /><br /> Trưa ngày 29/4/75, Tr/Úy Hợi họp tất cả các Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan trong Biệt Đội. Sau khi thuật lại cuộc nói chuyện với Tr/Tá Khoa, Tr/Úy Hợi cho các anh em biết, trong lần tiếp tế gần nhất bằng trực thăng, Tr/Úy Hợi có nhận được lá thư tay của Đại Tá Huấn trong đó, ngoài những lời chỉ bảo, còn có câu nhắn nhủ ngắn gọn: “Hợi, tình hình rất nặng, nếu có gì, cùng Tử Thủ với Liên Đoàn”. Sau khi bàn luận, tất cả đồng ý rút.<br /><br /> Chiều ngày 29/4/75, Tr/Úy Hợi trả lời Tr/Tá Khoa là sẽ cùng rút với ông, nếu Tr/Tá Khoa cùng đồng ý rút chứ Tr/Úy Hợi không cho lính của Biệt Đội uy hiếp ông (Tr/Tá Khoa đồng ý và do đó đã không có buổi họp chiều hôm đó). Sau đó Tr/Úy Hợi ra lệnh cho Biệt Đội 813/BCND chuẩn bị để ngày mai di chuyển về hậu cứ, đồng thời bảo Trung Uý Phan Anh Tuấn Biệt Đội Phó vào Quân Y Viện Tỉnh để thông báo với các thương bệnh binh của BCND. <br /><br /> Sáng ngày 30/4/75, Tr/Tá Khoa cho biết lực lượng rút khỏi Tây Ninh chỉ có Trung Đoàn của ông và Biệt Đội 813/BCND (Đại Tá Tài ở lại không đi). Lệnh hành quân như sau: Di chuyển bằng xe về Sài Gòn, nếu bị phục kích, xuống xe đánh bật rồi đi tiếp (lúc đó quốc lộ nhiều đoạn bị cắt). Biệt Đội 813/BCND được phân chia đi cùng với Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 49. Khoảng 7 giờ sáng, tất cả đã lên xe chuẩn bị di chuyển. Đi theo Biệt Đội 813/BCND, ngoài các thương bệnh binh của BCND, còn có một người nữa là Trung Tá Trưởng Ty Cảnh Sát Tỉnh Tây Ninh (không nhớ tên vị Tr/Tá này). Đoàn xe đi được một đoạn, khoảng 8 giờ sáng, thì bị chặn lại. Tr/Úy Hợi cho quân nhân Biệt Đội xuống xe, tạt sâu vào bên phải quốc lộ, bố trí đợi lệnh. Kiểm điểm lại quân số, Biệt Đội 813 không thiếu một ai, kể cả các thương binh của BCND, ngoài ra còn có Tr/Tá Khoa và Tr/Tá Cảnh Sát. Lúc đó, Tr/Úy Hợi mở bao thư mật của Tr/Tá Lân khi ông rời Tây Ninh, trong bao thư có một bản đồ chỉ dẫn các điểm tập trung để đợi triệt xuất khi gặp nạn. Tr/Tá Khoa cho biết Việt Cộng đã chiếm Tỉnh Tây Ninh ngay sau khi đoàn xe rời Tây Ninh. Tr/Tá Khoa và Tr/Úy HợI quyết định di chuyển bộ về Sài Gòn. Để tránh gặp địch, Biệt Đội 813 đi men theo bờ ruộng, xa Quốc Lộ. Tr/Tá Khoa cho biết là ông đã mất liên lạc với Trung Đoàn của ông. <br /><br /> Trưa ngày 30/4/75, trong lúc đang di chuyển, một binh sĩ BCND mở radio đang phát ra: lời kêu gọi đầu hàng của Tổng Thống Dương văn Minh. Sau khi dừng quân bố trí, Tr/Tá Khoa nghĩ Vùng 4 bây giờ vẫn còn và ông muốn cùng anh em Biệt Đội 813 về đó. Sau đó đoàn quân 813/BCND lại vững tay súng tiến bước lên đường mặc bỏ sau lưng lời kêu gọi đầu hàng của Tổng Thống Minh. <br /><br /> 4 giờ chiều ngày 30/4/75, Tr/Úy Hợi họp tất cả các Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan để hỏi ý kiến. Tất cả đều đồng ý để súng tại bờ ruộng ấp Bầu Nâu và đi ra quốc lộ. <br /><br /> Ngày 1/5/75, các anh em trong Biệt Đội 813/BCND vẫn giữ kỷ luật nghiêm minh theo lệnh Tiểu Đội Trưởng, Trung Đội Trưởng, Biệt Đội Phó Tuấn và Biệt Đội Trưởng Lai Đình Hợi. <br /><br /> Khoảng 9 giờ tối ngày 1/5/75, Biệt Đội 813 và các anh em thuộc Sư Đoàn 25 được lệnh tập họp để nghe “Chính Sách Khoan Hồng Của Cách Mạng”. Trước khi chấm dứt, một Cán Binh nói: “Tất cả các Sĩ Quan ở lại, Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ được ra về”. Tr/Úy Hợi nói nhỏ: “Tất cả đi hết, không ai ở lại.”. Khoảng 10 giờ đêm ngày 1/5/75, tất cả Biệt Đội 813/BCND kéo nhau ra quốc lộ, đi bộ suốt đêm về Gò Dầu để đón xe đò về Sài Gòn. Đoàn xe đò chở Biệt Đội 813/BCND về đến Ngã Tư An Sương vào khoảng trưa ngày 2/5/75 và anh em Biệt Đội 813/LĐ81BCND chia tay nhau tại đó. <br />Số phận của 6 toán thám sát của LĐ81/BCND trong chiến khu D<br /><br /> Riêng về 6 toán thám sát được trực thăng thả sâu trong mật khu VC đã hoàn toàn mất liên lạc. Hệ thống vô tuyến liên lạc của toán bằng máy PRC25, UHF-1 phải qua các trạm chuyển tiếp (Radio Relay Station) bằng phi cơ L-19 hoặc các đài tiếp vận truyền tin ở các núi cao. Nhưng sau ngày 29 /4/75 các toán này không liên lạc bằng truyền tin với bộ chỉ huy LĐ81/BCND được nữa, vì những đài yểm trợ tiếp vận truyền tin đã không còn. Các toán thám sát chưa biết lệnh buông súng của T/t Dương văn Minh ngày 30/4/75. Mười tám anh em của 3 toán liên lạc truyền tin được với nhau, lương khô 5 ngày đã cạn, họ đã phải nhịn đói, mưu sinh thoát hiểm, lặn lội từ rừng sâu, khi về đến một làng ở quận Tân Uyên cạnh sông Đồng Nai gần thác Trị An (đồn Đại An ngày xưa). Họ đã quá đói nên men vào làng để xin ăn và thăm hỏi sự tình. Ba toán thám sát này đã bị Việt Cộng bao vây, nên anh em đành buông súng vào ngày 5/5/1975. Mười tám anh em bị Việt Cộng giam, bỏ đói, sau đó bắn hết rồi thả trôi sông. Những xác của anh em thám sát thả trôi sông, sau bị sình thối nên Việt Cộng bắt dân vớt lên chôn dọc theo bờ sông Đồng Nai, còn 8 xác anh em khác đã chôn tập thể trong một cái giếng bỏ hoang. Theo dân làng cho biết thì có một anh chưa chết, được hai vợ chồng già trong làng đem dấu và cứu sống. Anh này tên là Đức. Hàng năm mỗi khi Tết đến anh Đức đều trở lại để đền đáp và tạ ơn cứu tử của ân nhân. Nhưng từ năm 1995 hai ông bà cụ đó đã qua đời nên anh Đức không còn đến nữa. Một toán viên khác tên Nguyễn văn Một, khi dân làng chôn cất thì có giữ được một cuốn nhật ký nhưng nay cuốn nhật ký đó cũng đã thất lạc. Mặc dầu Liên Đoàn 81/BCND đã cố gắng tìm kiếm để mua lại nhưng không được. Còn phần mộ anh Tuấn là sĩ quan toán trưởng đã được gia đình đến bốc cốt từ năm 93.<br /><br /> Còn toán của chuẩn úy Lê Xuân Hiền trở về ngày 7/5/75 và toán của thiếu úy Nguyễn Minh trở về ngày 15/5/75 cũng tại vùng Đại An nhưng không bị Việt Cộng xử bắn nữa. Anh Lê xuân Hiền và Nguyễn Minh nay đã được định cư ở Hoa Kỳ. <br /><br /> Theo dư luận địa phương cho biết sở dĩ hai toán này không bị VC giết chết vì dân chúng bàn tán sôi nổi về sự dã man của Việt Cộng đã ngược đãi và tàn sát 3 toán trước.<br /><br /> Toán trưởng Lê Xuân Hiền cho biết sau khi bị VC tước bỏ vũ khí ngày 7/5/75, anh bị đưa vào trại tù binh trong rừng Bình Sơn. Tại đây, toán trưởng Hiền gặp thêm 12 anh em thám sát ở các toán khác. Trong đó toán trưởng Hiền còn nhớ tên các anh c/u Huỳnh sơn Phương, t/s Võ văn Hiệp, Lý Khách, Lê văn Điệp c/u Nguyễn văn Bé, Nguyễn văn Sơn v.v. Trong thời gian bị giam giữ ở đó, các anh đã bị đánh đập tra tấn trả thù nên anh Nguyễn văn Sơn và t/s Võ văn Hiệp đã chết. <br /><br /> Năm 1995 Gia Đình 81/BCND ở hải ngoại đã cho người về làng Đại An để lập mộ cho những anh em đã đền nợ nước nhưng dân chúng địa phương đã không dám hợp tác. Dân chúng sợ Việt Cộng trả thù vì việc lập mộ bia cho anh em là trưng bày cái dã tâm vô nhân đạo của Việt-Cộng. Những quân nhân thuộc LĐ81/BCND đã bỏ mình tại làng Đại An vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến chỉ còn trong tâm tưởng của những người dân ở đó và chiến hữu còn sống sót mà thôi. <br /><br />Phần Kết<br /><br /> Những anh hùng của LĐ81/BCND đã sa cơ trong thảm cảnh tháng Tư ở Đại An, họ đã nhận lãnh những viên đạn oan nghiệt của kẻ thù vào sau cái ngày mà những người còn "mê ngủ" đã rêu rao gọi là ngày "hoà bình đã đến trên quê hương Việt-Nam!"<br /><br /> GĐ81/BCND</strong>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-57395193134404052462008-03-28T15:18:00.001-07:002008-12-11T03:12:37.592-08:00Tieu Su Truong Bo Binh Thu Duc<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhn1i91Xcgr0W0SDUnhYzIa3zsv8bl9yLtzw18Zox9P-W11-UKo9B30mkp1HAYWd1Qx1OGc-Ieb846npYv3YFxTu6PCNcxTXyeD1-x0Fiqm5TItls9I_6kgZq4I5eBKhEtbsVH60wTyzW4/s1600-h/Huyhieuthuduc.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhn1i91Xcgr0W0SDUnhYzIa3zsv8bl9yLtzw18Zox9P-W11-UKo9B30mkp1HAYWd1Qx1OGc-Ieb846npYv3YFxTu6PCNcxTXyeD1-x0Fiqm5TItls9I_6kgZq4I5eBKhEtbsVH60wTyzW4/s400/Huyhieuthuduc.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213266755020542274" /></a><br /><br /><strong>TIỂU SỬ<br /> TRỪƠNG BỘ-BINH THỦ-ÐỨC <br /><br /> V iệc huấn luyện đơn vị và đào tạo cán bộ cho Quân lực Việt Nam đặt thuộc lãnh vực yễm trợ cũa các Quân trừơng Liên Hiệp Pháp. Tuy nhiên, kễ từ năm 1946, các Quân trừơng riêng biệt cũa Quân đội Việt Nam đựơc dần dần thành lập để mỡ rộng sự phát triển Quân lực. Tính theo thứ tự thời gian tới khi ngưng chiến, có nhiều Quân trừòng đã đựơc thành lập và một trong những Quân trừơng nầy là Trừơng Sỉ quan Trừ bị Thủ Ðức.<br /><br /> Theo quá trình thành hình cũa các Quân trừơng, khóa Liên Quân Viển Ðông là một khóa huấn luyện cũa Quân đội Pháp, có khỏang 10 khóa sinh Sỉ quan ngừơi Việt, đựơc mỡ với mục đích tăng thêm sĩ số ngừơi Việt trong Quân đội Pháp, chứ ngừơi Pháp chưa có ý định tạo dựng một Quân đội Việt Nam riêng biệt.<br /><br /> M ãi tới cuối năm 1948, Pháp mới thực sự mỡ Trừơng Sỉ Quan cho Quân đội Việt Nam. Ðó là Trừơng Sỉ Quan Huế, nhưng trừơng nầy lại đựơc khai sanh do sáng kiến cũa ông Phan Van Giáo, đương kim Tỗng Trấn Trung Phần, một phần tử rất đựơc Quốc Trửơng Bão Ðại tin cây, cho mang hàm Trung Tứơng đễ lập Quân đội Quốc gia,, và tạm thời lạnh đạo lực lựơng Việt Binh Ðòan. Lúc đó ông Giáo còn có triển vọng đựơc Quốc Trửơng bỗ nhiệm làm Tổng Tư Lệnh Quân Ðội Quốc gia do ông thành lập, với những sáng kiến riêng biệt. Khi lập ra Trừơng Si quan Huế, ông muốn tạo Trừơng nầy làm nơi rèn luyện các cấp chỉ huy cho Quân đội cũa ông. Nhưng ý kiến cũa ông không đựơc ngừơi Pháp chiều theo, họ chỉ muốn Trừơng nầy là nơi đào tạo chung cho cả Quân đội, với nhiệm vụ vừa đào tạo các Sỉ quan Trung đội trửơng cho các đơn vị chiến đấu, vừa đào tạo một số huấn luyện viên cho những khóa sau nầy.<br /><br /> Mùa Thu 1950, nhầm có những Quân Trừơng đào tạo cán bộ hạ sỉ quan, tại mỗi Quân khu đựơc phép mỡ một Trừơng võ bị địa phương. Trừơng hạ sỉ quan Trung Chánh đào tạo đa số cán bộ cấp nhỏ cho ngành vệ binh Nam Việt. Trừơng hạ sỉ quan Huế khi mỡ, thì Trừơng sỉ quan Huế chuyển về Ðà Lạt cải thành Trừơng Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt, khai mỡ khóa thứ ba ngày 1-10-1950. Trừơng này đựơc mang về Ðà Lạt là do ý kiến cũa Quốc Trửơng Bảo Ðại. Lúc đó Quốc Trửơng đang ở Ðà Lạt nên muốn Quân Trừơng chính nầy đựơc dời về đây, để ông tiện coi sóc. Trừơng Sỉ quan hiện dịch khi ỏ Huế đồn trú tại Ðạp Ðá và Trừơg Vỏ Bi địa phươg nhận doanh trại nầy khi thành lập. Nhưng thực ra hai trừơng nầy khác nhau. Trừơng Vỏ Bị địa phương có lúc phải dời ra Van Thanh để sửa chửa ngoi Trừơng ở Ðạp Ðá rồi sau lại di trở về.<br /><br /> T rừơng Vỏ Bị Nam Ðịnh đã có vinh dự đào tạo khóa 1 Nam Ðịnh vào cuối năm 1951, khi Trừơng Sỉ quan Trừ bị xây trên đồi Tăng Nhơn Phú quận Thủ Ðức chưa hoàn tất. Tuy nhiên, khóa 1 Thủ Ðức cũng diển ra tại đây, trong những căn nhà lá đựơc dùng tạm thời làm chổ cho khóa sinh lưu trú. Bởi vậy, khóa 1 trừ bị đã diển ra tại 2 nơi vào cùng ngày 1-10-1951. Các Trừơng Vỏ Bị địa phương khi mới thành lập vì còn bị ảnh hửơng bởi Trừơng Sỉ Quan Huế trứơc đây nên còn đựơc phép đào tạo cấp Chuẩn úy, nhưng chỉ có 2 khóa đầu, về sau chỉ đựoc đào tạo Hạ Sỉ quan cấp trung đội trửơng và cấp chuyên môn mà thôi. <br /><br /> Năm 1951, đánh đấu việc động viên, không những động viên các thành phần Sỉ quan vào các tư nhân, công tư chức, học sinh, sinh viên; có cấp bằng văn hóa từ trung học đệ nhất cấp hoặc cấp tương đương trở lên, mà còn động viên các thành phần hạ Sỉ quan và binh sỉ không có căn bản văn hóa như trên, hay có văn hóa nhưng liệt vào lọai không có sức khỏe chiến đấu. Việc kêu gọi động viên những thành phần Hạ Sỉ quan và binh sỉ đựơc dự trù tới 60.000 ngừơi và đựơc chia gọi thành 4 đợt, mỗi đợt 15.000 ngừơi : Bắc: 6.000, Trung: 3.000 và Nam: 6.000. <br /><br /> Ðể thâu nhận những phần tử động viên nầy, tại Bắc Việt trung tâm huấn luyện Bắc Ninh đựơc mỡ nhưng sau trung tâm nầy phải bãi bỏ vì không thuận tiện lợi về mặt an ninh. Tại Trung tâm Nam Việt, việc huấn luyện những tân binh động viên đã diển ra ở thành Mang Cá và Cây Ðiệp. Vấn đề động viên binh sỉ lúc đó chỉ là 1 nhu cầu chính trị, bởi vậy sau 2 tháng thụ huấn, các học viên đựơc thong thả trở về nhà đợi lệnh. Nhưng việc động viên Sỉ quan lại không thế, những phần tử tốt nghiệp Sỉ quan đựơc bổ nhậm ngay tới các đơn vị Liên Hiệp Pháp vừa đựơc Việt hóa, để dần thay thế các cán bộ Pháp. Việc động viên Sỉ quan đã gây nên một vài vụ rắc rối, đó là vụ bải khóa tại khóa 1 Nam Ðịnh, đựơc cầm dầu bởi 1 số khóa sinh là sinh viên và học sinh phản đói việc nhập ngũ mà họ coi là vô nghĩa. Một số khóa sinh trong đám đó bị bắt giử nhưng sau lại đựơc đưa vào theo học khóa 1 Thủ Ðức, một số khác đựơc phép thi vào khóa 6 Ðà Lạt. Một vụ rắc rối khác xẩy ra tại khóa 2 Thủ Ðức nhưng đã bị dập tắt ngay. <br /><br /> Trừơng Sỉ quan trừ bị lúc ấy góp sức vào việc đào tạo các sỉ quan chuyển môn như Pháo Binh, Trọng Phao, Thiết Giáp, Xa Binh, Truyền Tin, Quân Cụ, Công Binh v…v…Thời gian thụ huấn chia làm 2 giai đọan :<br /> Giai đọan bộ binh căn bản và giai đọan chuyên môn. Những khóa sinh nào đựơc chọn theo ngành, sau khi học xong giai đọan bộ binh, sẽ theo giai đọan chuyên môn, và khi đã tốt nghiệp sỉ quan tại Thù Ðức, đựơc gửi đi học tiếp ở các quân trừơng chuyên môn Liên Hiệp Pháp. Còn những si quan tốt nghiệp thuần túy bộ binh đựơc gởi ngay tới các đơn vị để phục vụ.<br /><br /> Ðể đáp ứng cho nhu cầu Việt hóa cuộc chiến tranh, tới cuối năm 1953, việc đào tạo các cán bộ sỉ quan có phần gấp rút, và đăc biệt đã đăt trọng tâm vào trừơng Thủ Ðức. Trừơng nầy đang từ sự thu nạp thông thừơng 500 khóa sinh mõi khóa, đã phải tăng lên 1.000 cho mỗi khóa. Với sự gia tăng số lựơng khóa sinh nầy, giừơng bố đã phải thay bằng giừơng tăng, các khóa sinh thụ huấn đã phải sống trong một hòan cảnh chật chội quá đáng. Thế nhưng sự gia tăng nầy vẩn chưa đũ, do đó nhửng khóa si quan trừ bị phụ đựơc mỡ thêm <br /><br /> T ại trừơng Vỏ Bị Liên Quân Ðà Lạt, để kịp thời cung cấp cán bộ cần thiết cho quân đội. Ðo nhu cầu nầy mà ngày nay các sỉ quan trừ bị đã nắm giử những mấu chốt quan trọng hầu hết các ngành họat động quân đội, bởi vì khối lựơng sỉ quan trừ bị đông hơn sỉ quan hiện dịch, khối lựơng nầy lại có nhiều khả năng, và đã sợ vì cuộc chiến kéo dài nên đã phục vụ vĩnh viễn cho binh nghiệp. Việc đào tạo qua ngã động viên đã 1 phần nào làm thay đổi bản chất cũa quân đội, đang từ tính cách than binh sang tính cách quốc gia, bởi vì các thành phần động viên có mặt trong quân đội tiêu biểu cho mọi giới quân chủng cũa quốc gia. <br /><br /> Ðầu năm 1955 quân đội chỉ còn có những quân trừơng chính mà Trừơng Sỉ Quan Trừ Bị Thủ Ðức là một trong những quân trừơng nầy. Trong thời gian nầy trừơng sỉ quan trừ bị Thủ Ðức phải tạm thời đãm nhiệm các chuyên khoa : Bộ binh, Thiết giáp, Pháo binh, Công binh, Truyền tin, Quân cụ, Thông vận binh ( tức là xa binh ) và Quân chinh, nền vào năm 1957 cải thành Liên Trừơng Vỏ Khoa Thủ Ðức. <br /><br /> Sau nầy các trừơng chuyên môn trong Liên trừơng Vỏ Khoa Thủ Ðức lại tách riêng ra và di chuyển đến các địa đỉêm khác và trừơng Thủ Ðức lại đựơc cải danh thành Trừơng Bộ Binh và chỉ thuần túy đào tạo các sỉ quan bộ binh. Ngoài ra trừơng Bộ Binh còn đặc trách huấn luyện các khóa Ðại Ðội Trửơng và Tiểu Ðòan Trửơng.<br /><br /> Ðến đầu năm 1974 thì Trừơng Bộ Binh đựơc dời lên Long Thành,(Trại cũa Quân Ðội Thái Lan củ) cho đến đầu tháng 4 năm 1975 thì di tảng trở lại Thủ Ðức và ở đây cho đến ngày mất nứơc 30 thang 4 nam 1975. Khóa cuối cùng cũa Trừơng Bộ Binh Thủ Ðức là khóa 3/75.<br /><br /> ( Sach tham Khao : QUAN SU 4 CUA QUAN LUC VIET NAM CONG HOA) <br /><br /> <br /><br />TRỪƠNG SỈ QUAN TRỪ BỊ THỦ ÐỨC<br /> Ngày 5-6-1948, do Hiệp Ứơc Vịnh Hạ Long, Tòan quyền Pháp Bollaert đã cử Cựu Hòang Bảo Ðại làm Quốc Trửơng và thừa nhận Việt Nam là một Quốc gia Ðộc lập trong khối Liên Hiệp Pháp.<br /><br /> Một năm sau, vào ngày 8-3-1949, Quốc Trửơng Bảo Ðại ký Hiệp Ứơc Elysee với Tổng Thống Pháp Vincent Auriol. Theo hiệp ứơc đó, Pháp sẽ xây dựng cho Việt Nam một Quân đội Quốc Gia. Do đó, ngày 8-3-1949 là khởi điểm cho việc thành lập Quân Ðội Quóc Gia và các trừơng đào tạo Sỉ Quan, các trung tâm huấn luyện Hạ Sỉ Quan, binh sỉ cho Quân Ðội Quốc Gia. Trừơng đào tạo Sỉ Quan Vỏ Bị Huế dành cho các HSQ đã phục vụ trong quân đội Pháp, khai giảng đầu tiên vào năm 1949 và đã đào tạo ra các sỉ quan như các tứơng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Ðặng Văn Quang…….là những ngừơi đã góp phần lãnh đạo nứơc Việt Nam trong nhiều thập niên.<br /><br /> N gày 23-12-1950, Việt Nam, Pháp và Hoa Kỳ ký hiệp định hổ tương, phòng thủ và viện trợ. Cùng ngày đó, Nghị Ðịnh thành lập Trừơng Sỉ Quan Trừ Bị Thủ Ðức ở miền Nam, và trừơng Sỉ Quan Nam Ðịnh ở miền Bắc đựơc ban hành. Trừơng Sỉ Quan Trừ Bị Nam Ðỉnh chỉ đào tạo đựơc 1 khóa rồi đóng cữa. Riêng Trừơng SQTB Thủ Ðức khai giảng khóa đầu tiên năm 1951 và kéo dài đến ngày 30-4-1975. Trong thời gian 25 năm đó, trừơng đã đào tạo hơn 55.000 SQ cho Quân Ðội Quốc Gia thuộc đủ mọi Quân chũng như Bộ Binh, Hải Quân, Không Quân và thuộc đũ mọi Binh chũng như Pháo Binh, Quân Cụ, Truyền Tin……..Theo hiệp định hổ tương, phòng thủ và viện trợ, năm 1950 đến 1954, Hoa Kỳ đã cung cấp cho Việt Nam một ngân khỏan 2 tỉ Mỹ kim để trang bị vũ khí và huấn luyện cho Quân Ðội Quốc Gia. Cùng trong thời gian từ 1951 đến 1954, trừơng đã đựơc chĩ huy bởi các SQ và Huấn Luyện Viên ngừơi Pháp. Bắt đầu từ năm 1955, trừơng đã đựơc chỉ huy bởi các SQ và các HLV đều là Sỉ quan Việt Nam.<br /><br /> Suốt 25 năm có mặt, trừơng Thủ Ðức đã đào tạo hơn 55 ngàn Sỉ Quan, thì giai đọan III ( nhất là sau lệnh Tổng Ðộng Viên ) đã chiếm đến gần 50 ngàn SQ để có đũ số Sỉ Quan cần thiết cung ứng việc chỉ huy cho 1 triệu quân…. Và tính đến ngày mất nứơc, đã có khỏang 5.000 Sỉ Quan đã hy sinh vì tổ quốc trên các chiến trừơng. Theo truyền thuyết nghe đựơc ở trừơng Bộ Binh Thủ Ðức, thì những đứa con thân yêu ấy đã trở về với Mẹ, trên mặt tựơng cũa Trung Nghĩa Ðài có hiện thêm một đừơng kẻ nứt !<br /><br /> Sau ngày 30-4-1975, Hội Ái Hữu Cựu Sinh Viên Sỉ Quan Thủ Ðức, đựơc một nhóm anh em có thành tâm thiện chí thiết lập lại lần đầu tiên vào tháng 12-1985 tại Houston, Texas, và cứ 2 năm họp một lần.</strong>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-12635919300758490872008-03-28T15:11:00.000-07:002008-12-11T03:12:37.821-08:00Biet Dong Quan<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiNZwUlac0ZWp5o3wwk97bfJTZTbav5_PpHw06T3eiuQrInQbCXKrzHSM5_V38uonZxKkOy2YuxiEBMEx7kVWh-aVDbFB7rcGdLrZKf41t8l9RQ64OPadhs1xFMWRif-93omD4ToufnNlg/s1600-h/Bietdongquan.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiNZwUlac0ZWp5o3wwk97bfJTZTbav5_PpHw06T3eiuQrInQbCXKrzHSM5_V38uonZxKkOy2YuxiEBMEx7kVWh-aVDbFB7rcGdLrZKf41t8l9RQ64OPadhs1xFMWRif-93omD4ToufnNlg/s400/Bietdongquan.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213266915033138162" /></a><br /><br /><strong>Vươn lên qua các giai-đoạn xây-dựng<br />và trưởng-thành trong khói lửa chiến-tranh<br /><br />Biệt-Ðộng-Quân là một trong những binh chủng tân lập của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. Ðược thành-lập ngày 1 tháng 7 năm 1960 đến năm 1975 <br />binh-chủng vừa tròn 15 tuổi. Tuy mới được thành-lập nhưng đúng vào những giai-đoạn sôi-động của chiến-trường cho nên binh-chủng đã hiên-<br />ngang và kiêu-hùng sánh vai cùng các binh-chủng bạn trên khắp chiến-trường, từ địa đầu giới-tuyến đến vùng Cà-Mâu nước đọng qua Hạ Lào và <br />Kampuchia nắng cháy. Ở đâu có giặc Cộng, ở đó có bóng dáng người chiến-sĩ mũ Nâu và binh-chủng BÐQ luôn luôn tỏ ra xứng đáng với danh-hiệu <br />Những Con Cọp Rừng của chiến-trường nội và ngoại biên.<br /><br />Biệt Ðộng Quân được thành-lập theo nhu-cầu chiến-trường du-kích-chiến. Những đơn-vị đầu tiên của binh-chủng mang tính chất “cơ động” (Truy <br />kích và tiêu diệt) được gọi là Biệt Ðộng Ðội và quân-số chỉ đến cấp đại đội. Mỗi một Liên đoàn BÐQ có 3 tiểu đoàn tác chiến, một đại-đội trinh-sát, đại <br />đội Hành Chánh và Công Vụ. Cuối năm 1973, Liên đoàn có thêm một pháo-đội 105 ly. Ðến những ngày sau cùng của cuộc-chiến, BÐQ đã chính-thức <br />được tổ-chức thành cấp sư-đoàn. Sư đoàn 106 đầu tiên do Ðại Tá Nguyễn Thành Chuẩn chỉ huy. Năm 1970, BÐQ một lần nữa nhận thêm một nhiệm <br />vụ mới là tiếp nhận Lực Lượng Ðặc Biệt và Biên Phòng sát nhập và được cải biên thành BÐQ/BP. Thêm một đặc tính chiến thuật của BÐQ là địa <br />diện, nhận nhiệm vụ mắt thần trải dọc biên giới Việt Miên Lào. Quân-số của binh-chủng lên đến 40 ngàn người trong đó có 62 tiểu-đoàn tác-chiến.<br />Tuy là một binh-chủng tân-lập nhưng phần lớn các cấp chỉ-huy của BÐQ đã được bổ-nhiệm bằng những sĩ-quan ưu-tú đầy kinh-nghiệm chiến-<br />trường từ các quân-binh-chủng nổi-danh của QLVNCH. Do đó hiệu-năng tác-chiến của binh-chủng BÐQ đã gia-tăng gấp bội. 15 năm trưởng-thành <br />trong khói lửa chiến-tranh, binh-chủng đã lần-lượt được chỉ-huy bởi các vị chỉ-huy-trưởng: Thiếu Tá Lữ Ðình Sơn, Trung Tướng Phan Trọng <br />Chinh, Chuẩn Tướng Phan Ðình Thứ (tự Lam Sơn), Thiếu-Tướng Tôn Thất Xứng , Cố Thiếu-Tướng Phan Xuân Nhuận, Thiếu-Tướng Ðoàn Văn <br />Quảng, Cố Chuẩn-Tướng Trần Văn Hai, Ðại-Tá Trần Công Liễu, và sau cùng là Thiếu-Tướng Ðỗ Kế Giai vị tướng lãnh cuối cùng vừa đến định cư tại <br />Hoa Kỳ sau gần 17 năm trong trại tù cộng-sản.<br /><br />Chiến-sĩ mũ Nâu sau khi mãn-khóa từ những quân-trường bộ-binh đều phải trải qua một lần thử-thách cuối cùng tại Lò Luyện Thép trước khi <br />rađơn-vị chính-thức thi-hành sứ-mạng của người trai thời loạn. Không một người lính mũ Nâu nào là không biết đến danh-từ RỪNG NÚI SÌNH LẦY tại <br />trung-tâm huấn-luyện BÐQ Dục-Mỹ (Nha-Trang). Nơi đã được tổ-chức huấn-luyện bằng sự phối-hợp chương-trình và kỹ-thuật huấn-luyện của RNSL <br />Mã-Lai, Panama và Fort Benning của Hoa-Kỳ. Nhưng tại RNSL Dục-Mỹ, người khóa-sinh BÐQ phải chịu nhiều cam-go, khó-khăn và thử-thách hơn <br />trong khi tập-luyện để khi xuất-thân từ LÒ-LUYỆN-THÉP DỤC-MỸ họ sẽ trở-thành những chiến-sĩ MÌNH ÐỒNG DA SẮT CỦA QLVNCH và sẵn-sàng <br />thích- nghi với mọi đòi-hỏi của nhu-cầu chiến-trường. Mặc dù TTHL/BÐQ/Dục-Mỹ trên hình-thức chỉ được xếp ngang hàng như các TTHL cấp binh-<br />chủng, nhưng Dục-Mỹ đã hãnh-diện trước quân-đội vì đã nhận trách-nhiệm huấn-luyện cho nhiều quân-nhân thuộc các quân binh-chủng bạn qua <br />các khóa học bổ-túc thích-ứng với đòi hỏi của nhu-cầu chiến-trường qua chỉ-thị của Bộ Tổng Tham Mưu.<br /><br />Từ Mậu-Thân tang-tóc (1968) đến mùa hè đỏ lửa (1972) và những trận đánh cuối cùng. Binh-chủng BÐQ luôn luôn cùng các đơn-vị bạn giáng cho <br />bọn giặc Cộng những đòn sấm sét và chí-tử. Trong lúc Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đang bận đối-phó với Cộng-phỉ qua những trận đánh long <br />trời lở đất tại vùng I và quân khu I, thì các chiến-sĩ mũ Nâu cũng đã bẻ gãy mọi mưu-toan tiến chiếm của Bắc quân xâm-lăng cuồng-tín tại các khu <br />chiến-thuật và biên-giới. Ðặc-biệt là tại thủ đô Sài-Gòn, Chợ-Lớn và Gia-Ðịnh ba liên-đoàn BÐQ (3, 5 và 6) đã đánh tan tành không còn manh-giáp <br />bọn cộng-nô cuồng tín trong hai đợt tổng công kích: Tết Mậu-Thân và tháng 5 dương-lịch 1968.<br /><br />Thành-tích của binh-chủng đã không dừng lại tại thời điểm này. Trận chiến vẫn tiếp tục diễn tiến trong chiều hướng gia tăng của bắc quân. Năm <br />1972, những trận chiến oai hùng của Mùa Hè Ðỏ Lửa lại một lần nữa quân-sử của QLVNCH được ghi thêm thành-tích của binh-chủng BÐQ. An-Lộc <br />tử-thủ, Bình Long anh dũng đã là những địa danh quen thuộc của người dân miền Nam. Nơi trận chiến đã diễn ra với những cường-độ tàn bạo nhất <br />của cuộc chiến để sau đó trở thành mồ chôn tập thể của hàng ngàn con thiêu-thân cán binh Bắc Việt. Cũng trong thời gian này những người lính <br />mũ Nâu của Quân Khu I đã bị ném vào mặt trận Hạ Lào Lam Sơn 719 năm 1971 trong cái bẫy của đồng minh, nhưng nhờ sự chiến-đấu anh-dũng của <br />những người lính Rừng Núi Sình Lầynên BÐQ/Quân Khu I vẫn chưa bị xoá tên trong quân số QLVNCH. Cũng trong thời gian này Tống Lê Chân (tức <br />Sóc Con Trăng cũ) đã là mồ chôn tập thể hàng ngàn cán binh thiêu thân của giặc cộng. Tiểu đoàn trưởng Lê Văn Ngôn đã anh dũng tử thủ hơn năm <br />trời và là người Trung tá trẻ tuổi nhất của QLVNCH lúc vừa tròn 25 xuân xanh. (BÐQVN sẽ có bài viết riêng về Tống LêChân). Cuối cùng trước khi <br />sự bức tử 30-4-75 xảy ra; một lần nữa các chiến-sĩ BÐQ lại được mang ra xử-dụng, lần này là Quân Khu II/BÐQ trong một cuộc di-tản dã man nhất <br />của quân-sử VNCH từ Pleiku về Phú-Bổn, Nha-Trang. Sau đó thì lệnh buông súng của hèn tướng Dương Văn Minh ban hành đã đưa đến kết quả <br />hàng ngàn người lính mũ Nâu nói riêng và QLVNCH nói chung đã lên đường ôm mối hận 22 năm.<br /><br />Không vinh-quang nào mà không có gian-khổ, cho nên thành-tích của binh-chủng đã được tô đậm bằng mồ-hôi và xương máu của những chàng <br />trai Việt oai-hùng và anh-dũng. Màu mũ Nâu tượng-trưng cho màu huyết-đọng đã thay cho lời nói quyết tử của người chiến-sĩ BÐQ. Ðể đền bù lại, <br />binh-chủng đã nhận được 4 trong tổng-số 7 huy-chương cao quý nhất của Quân-Lực Hoa-Kỳ là Presidential Unit Citation. TÐ52 mệnh-danh là Sấm <br />Sét Miền Ðông là tiểu-đoàn đầu tiên được nhận lãnh huy-chương danh-dự đó và TÐ44 Hùm Xám Miền Tây được một huy chương. Riêng TÐ42 nổi <br />tiếng với danh-hiệu Cọp Ba Ðầu Rằn được tuyên-dương hai lần.<br /><br />Hôm nay nhân ngày kỷ-niệm thành-lập binh-chủng BÐQ, chúng tôi mạn phép trình-bày sơ-lược tiểu-sử không phải để tự-kiêu mà chỉ muốn nhắc-<br />nhở và hâm nóng lại trong tim lời thề son-sắt ngày xưa cho mỗi Mũ Nâu BÐQ hôm nay là:<br /><br /><br />BIỆT ÐỘNG QUÂN vì dân quyết-chiến<br />BIỆT ÐỘNG QUÂN vì nước hy-sinh<br />BIỆT ÐỘNG QUÂN nói là làm, làm thì phải đến nơi đến chốn<br /><br /><br />Ước mong rằng tinh-thần Biệt-Ðộng đó sẽ sống mãi trong lòng mỗi người chiến-sĩ BÐQ. Hôm nay dù tay súng đã buông, tay chèo đã ngã, hay lực đã <br />cùng, sức đã kiệt, tóc đã ngả màu... thì chúng ta vẫn mang một ước-nguyện được chung vai sát cánh với các chiến-hữu của các quân-binh-chủng <br />bạn để mang ngọn cờ vàng ba sọc đỏ về cắm lại trên mảnh đất thân yêu Việt-Nam. Khi đó dù có nằm trong lòng đất Mẹ chúng ta cũng được mãn-<br />nguyện.<br />Thành kính nghiêng mình trước vong hồn của các chiến sĩ MŨ NÂU QLVNCH và anh hùng liệt nữ đã Vị Quốc Vong Thân vì chính nghĩa quốc gia và <br />hai chữ TỰ DO</strong>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-77631812491332812272008-03-28T14:22:00.000-07:002008-12-11T03:12:37.996-08:00Thanh Lap Hai Quan QLVNCH<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi1pFOPd_2ytfep-VpCRSpMTbYQE_zBdavTapqfdBzlnWwPYVNe5JmPrbM4ZoqmrVQr-KKv3E2qEe76XlocZSm1TzxFxHOwvDZ_WhkU6BTyPW0pLYUEKqO1ZxdQN7kAC0uhJV39u7H7P8U/s1600-h/HaiQUan.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi1pFOPd_2ytfep-VpCRSpMTbYQE_zBdavTapqfdBzlnWwPYVNe5JmPrbM4ZoqmrVQr-KKv3E2qEe76XlocZSm1TzxFxHOwvDZ_WhkU6BTyPW0pLYUEKqO1ZxdQN7kAC0uhJV39u7H7P8U/s400/HaiQUan.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213267129649220066" /></a><br /><br /><strong>THÀNH LẬP HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG HÒA <br /><br />Nguyễn Văn Ơn<br />Những nhà nghiên-cứu hải-sử có mặt tại khúc-quanh lịch-sử Việt-Nam, ngày 30 tháng 4 năm 1975, đều thừa nhận mặc dù đột-ngột tan hàng, song Hải-quân VNCH đã đóng được trọn-vẹn vai-trò giao-phó trong một cuộc chiến nghiệt-ngã huynh đệ tương tàn. Suốt quá trình 23 năm bảo vệ nước, căn-cứ vào những mốc thời gian quan-trọng thì thành-quả đạt được của quân-chủng có trhể chia làm 3 giai-đoạn; đặc-biệt chú-trọng đến sự lớn mạnh của Giang-lực và Duyên-lực:<br />· Giai-đoạn khó-khăn hình-thành.<br />· Giai-đoạn chậm-chạp phát-triển.<br />· Giai-đoạn nhanh-chóng bành-trướng.<br /><br />1- GIAI-ÐOẠN KHÓ-KHĂN HÌNH-THÀNH (1952-1957)<br />Ngày lịch-sử đau buồn mùng 1 tháng 9 năm 1858 cũng là ngày đánh dấu khởi-điểm suy-tàn của triều-đại Nhà Nguyễn, khi Ðề-đốc (Hải-quân Thiếu-tướng) Charles Rigault de genouilly (6) chỉ-huy 2500 lính viễn-chinh Pháp và 1000 lính thuộc-địa Tây-Ban-Nha với 14 chiến-hạm vào cửa Ðà-Nẳng bắn chìm các chiến-thuyền Việt-Nam, chiếm các pháo-đài bán-đảo Sơn-Trà rồi giao cho Hải-quân Ðại–tá Toyon trấn giữ. Ðến ngày 11 tháng 2 năm 1859, De Genouilly lại dẫn các chiến-hạm trên vô cửa Cần-Giờ đánh tan các chiến-thuyền và đồn-bót do Ðề-Ðốc Trần-Trí đang tổ-chức phòng-thủ tại vịnh Gành-Rái. Thừa thắng tiến lên thượng nguồn, ngày 18 tháng 2 năm 1859, quân Pháp lại tấn-công đổ-bộ qui-mô từ bờ sông vào thành Gia-Ðịnh. Thành vở, Án-sát Lê-Tứ và Hộ-Ðốc Vũ-Duy-Ninh đều tuẫn-tiết. Còn lại Ðề-Ðốc Trần-Trí, Bố-Chánh Vũ-Trực cùng Lãnh-Binh Tôn-Thất-Năng rút tàn quân về cố-thủ huyện Bình-Long.<br />Vào giữa thế-kỷ thứ 19, hạm-đội Pháp được các sử-gia Tây-phương đánh-giá là hạm-đội tối-tân nhất trong các cường-quốc hải-quân Châu-Âu đang săn tìm thuộc-địa. Các chiến-thuyền lỗi thời của thủy-quân Triều Nguyễn hành-thủy từ những năm vua Gia-Long phục-quốc thống-nhất sơn-hà 1802, nên không đủ khả-năng đương cự lại.<br />Qua hai trận thủy-chiến mà tương quan kỹ-thuật tác-chiến quá chênh-lệch như vậy thành ra quân ta thất trận hoàn-toàn và thủy-quân triều Nguyễn coi như thật sự bị xoá sổ từ đây, dù rằng dưới triều vua Tự-Ðức việc huấn-luyện thủy-quân rất được chú-trọng đến.<br />Giở lại những trang quân-sử thành-lập Quân-lực VNCH (7), nếu gác bỏ ra ngoài những tai-tiếng không tốt mà đối-phương đã tuyên-truyền về nếp sống xa-hoa của cựu-hoàng Bảo-Ðại lưu-vong, người đọc sẽ thông-cảm được quyết–tâm cao tạo-dựng một quốc-gia Việt-Nam (QGVN) độc lập, qua quyển CON RỒNG VIỆT NAM, của vị vua cuối-cùng triều-đại nhà Nguyễn.<br /><br /> Bảo Đại<br /><br />Trải qua nhiều giai-đoạn thương-thuyết rất cam go với chính-quyền thực-dân Pháp, cựu-hoàng Bảo-Ðại hết sức kiên-nhẩn với tập-đoàn thống-trị để họ chấp nhận một nước Việt-Nam độc-lập trong Liên-hiệp Pháp được hình thành.<br />Ngày mùng 5 tháng 6 năm 1948, hiệp-định sơ-bộ Vịnh Hạ-Long (dẫn đến hiệp-định Elysée sau này) ký-kết giữa Toàn-quyền Ðông-Dương Emile Bollaert và Thủ-tướng lâm thời Nguyễn-Văn-Xuân có cựu-hoàng phó-thự (countersign) trên chiến-hạm Duguay Trouin thừa nhận nguyên-tắc độc-lập và thống-nhất của nước Việt-Nam với Quốc-kỳ: Cờ màu vàng 3 sọc đỏ và Quốc-ca: Thanh-niên hành-khúc của Lưu-Hữu-Phước. (8).<br />Nhưng rồi Quốc-hội Pháp cứ làm ngơ, viện cớ chưa tìm được qui-chế thích-hợp cho Nam-Kỳ, mãi đến ngày 8 tháng 3 năm 1949 mới thuận cho Tổng-thống Pháp Vincent Auriol và cựu-hoàng Bảo-Ðại chính thức ký hiệp-định Elysée chấp nhận nước Việt-Nam độc-lập trong khối Liên-hiệp-Pháp có tổ-chức hành-chánh riêng, tài-chánh riêng, tư-pháp riêng, quân-đội riêng và Pháp sẽ ủng-hộ Việt-Nam gia-nhập Liên-Hiệp-Quốc (9).<br />Như vậy, cực chẵng đã chánh-phủ Pháp đành phải trao-trả nền độc-lập, thống-nhất và toàn-vẹn lãnh-thổ cho vị nguyên-thủ của nước Việt-Nam là Quốc-trưởng Bảo-Ðại. Dĩ-nhiên hiệp-định này đi ngược lại quyền-lợi của nước Pháp, vì thực-dân Pháp chỉ muốn cai-trị nước ta như trước kia mà thôi.<br /><br /> Jean De Lattre de Tassigny<br /><br />Thực-thi hiệp-định Elysée, thỏa-ước quân-sự Pháp-Việt ngày 30 tháng 12 năm 1949 về Hải-quân lại bị trì-trệ kéo dài đến giữa năm 1951, Ðô-Ðốc Ortoli, Tư-Lệnh Hải-quân Pháp ở Viễn-Ðông mới được lệnh lập kế-hoạch huấn-luyện quân-sự để chuyễn-giao đầu-tiên 2 Hải-Ðoàn Xung-Phong cho Hải-quân Việt-Nam. Chương-trình chuyễn-giao các Trục-Lôi-hạm(YMS), Giang-pháo-hạm(LSIL). Trợ-chiến-hạm(LSSL)... sẽ tiến-hành vào những năm kế tiếp. Nhưng khi nắm quyền Tổng-chỉ-huy hành-chánh lẫn quân-sự tại Ðông-Dương, Thống-Tướng Jean de Lattre de Tassigny (10) muốn Hải-quân Việt-Nam hoàn-toàn thống thuộc mọi mặt vào lục-quân Pháp, chứ không phải là một quân-chủng riêng như Ðô-Ðốc Ortoli đã đề-nghị. Viên tướng 5 sao này cho rằng một quân-chủng kỷ-thuật như Hải-quân không thể nào đứng vững được vì thiếu cán-bộ và chiến-cụ.<br />Ngày 15 tháng 8 năm 1951, Pháp đồng ý cho tuyển-mộ khóa 1 Sỉ-quan Hải-quân gồm 9 sinh-viên - 6 theo ngành chỉ-huy và 3 theo ngành cơ-khí - phần đông là cựu-sinh-viên trường Thủy-Văn Sài Gòn (Saigon Hydrography School); khóa Hạ-sĩ-quan có 50 và Ðoàn-viên là 300.<br />Còn về phía Chính-Phủ Quốc-Gia Việt-Nam, dù bị chèn-ép mọi mặt, Quốc-trưởng Bảo-Ðại vẫn kiên-trì tranh-thủ xây-dựng nền-tảng bắt đầu từ con số không cho Quân-Ðội Quốc-Gia.<br />Kể từ sau ngày 24 tháng 8 năm 1945 bị Hồ-Chí-Minh ép-buộc thoái-vị phải trao kiếm vàng cùng ấn ngọc cho đại-diện Việt-Minh Cộng-Sản là Trần-Huy-Liệu và Cù-Huy-Cận tại Ngọ-Môn Huế, cựu-hoàng hết sức thấm-thía về việc hoàng-triều không có một quân-đội đủ mạnh để dẹp bỏ Việt-Minh Cộng-Sản trước rồi sau đó đẩy lui Phú-Lang-Sa và bảo-vệ chủ-quyền Quốc-gia trường-tồn. Cho nên trong thông-điệp ngày 15 tháng 5 năm 1948 gửi cho Thiếu-Tướng Nguyễn-Văn-Xuân, cựu-hoàng tán-thành đề-nghị thành-lập Chính-Phủ Trung-Ương Lâm-Thời và giao cho Quốc-Vụ-Khanh kiêm Tổng-trấn Trung-phần (sau này đổi tên là Thủ-hiến Trung-Việt) Phan-Văn-Giáo (11) trọng-trách xây-dựng một Quân-Ðội Quốc-Gia Việt-Nam gồm đủ cả Hải, Lục và Không-quân. Cho đến năm 1949, Tổng-trấn Trung-phần Phan-Văn Giáo đã thành-công trong công-tác tuyển-mộ và huấn-luyện cho tổ-chức Việt-Binh-Ðoàn tại Huế. Sau hiệp-định Elysée, lần-lượt Vệ-Binh Nam-Phần và Bảo-Chính-Ðoàn Bắc-Phần cũng được thành-lập vào giữa năm 1950. Chính những đơn vị này là hạt-nhân cơ-bản cho tổ-chức quân-đội chính-qui QGVN (The Vietnamese National Army) ra đời ngày 30 tháng 1 năm 1951 (Dụ số 1-0D/VOP/DQT/TS) kèm theo 2 sắc-lệnh cùng ngày (12).<br />Sinh sau đẻ muộn hơn 2 quân-chủng Lục và Không-quân vì nghị-định thành-lập Hải-quân bị đình-hoãn nhiều lần. Nhưng rồi do nhu-cầu chiến-cuộc, dụ số 2 đã cho phép Hải-quân ra đời ngày 6 tháng 3 năm 1952, hồi-tố đến ngày 1 tháng 1 năm 1952. Vào thời điểm này, muốn thành-lập một quân-chủng kỷ-thuật như Hải-quân mà không có một đội ngũ cán-bộ chuyên-nghiệp giỏi, không có các phương-tiện huấn-luyện nhân-sự quả là một điều không tưởng. Không còn cách nào tốt hơn để đốt giai-đoạn, ngoại trừ Chính-phủ QGVN dựa vào những cơ-sở huấn-luyện có sẳn của Hải-quân Pháp để đào-tạo nhân-viên tân-tuyển của mình.<br />Cho nên trong khoảng thời-gian từ năm 1951 đến năm 1953, hầu hết Sĩ-quan, Hạ-sĩ-quan và Ðoàn-viên tiên-khởi của Hải-quân Việt-Nam phải theo thực-tập (On the job training) trên các chiến-hạm, chiến-đỉnh của Hải-quân Pháp đang hoạt-động ngoài biển cũng như trong sông.<br />Có thể nói những người tình-nguyện gia-nhập vào hàng ngũ Hải-quân Việt-Nam trong hoàn-cảnh quá khó-khăn như vậy là những thanh-niên quyết-tâm bảo-vệ quốc-gia và ôm-ấo mộng hải-hồ. Với tinh-thần yêu nươc cao độ, nhẫn-nhịn chịu đựng tập-luyện vượt qua nhiều giai-đoạn cực-khổ, cuối cùng họ đã chứng-tỏ được khả-năng hoàn-hảo về kỹ-thuật, hành-thủy và tác-chiến để xứng-đáng nhận lãnh đầu tiên 2 Hải-Ðoàn Xung-Phong Cần-Thơ và Vĩnh-Long vào giữa năm 1953 (13). Thái-độ đối-xử hòa-nhã cùng nhiệt-tình làm việc của tân thủy-thủ-đoàn Việt-Nam khiến cho một số Sĩ-quan và Hạ-sĩ-quan Pháp quên đi nỗi bất-bình về lá cờ màu vàng 3 sọc đỏ đang phất-phới bay trên các chiến-đỉnh của họ mà họ còn nán lại phục-vụ trong những ngày chót trước khi lên đường về nước.<br />Giờ đây, Hải-Quân Việt-Nam là một thực-thể trong ước-mơ của những chàng trai-trẻ ham ra khơi, thích lướt sóng; nhất là viễn-dương xuất-ngoại du-học. Họ đã tạo được niềm-tin vững-mạnh cho Thủ-Tướng Ngô-Ðình-Diệm ban nghị-định ngày 20 tháng 8 năm 1955 thành-lập Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân (BTL/HQ) và chính-thức bổ-nhiệm HQ/Thiếu tá Lê-Quang-Mỹ vào chức-vụ Tư-lệnh Hải-quân kiêm chỉ-huy-trưởng đoàn Thủy-quân-lục-chiến. Riêng Hải-Ðoàn 2 Xung-Phong (Dinassault N0 2) được tướng De-Lattre) ra lệnh thành-lập từ đầu tháng 2 năm 1951 theo nhu-cầu cuộc-chiến tại miền Trung-châu Bắc-việt vẫn trực-thuộc Bộ Chỉ-Huy Giang-Lực của Pháp (COFFLUSIC) và sát-nhập vào Hải-Ðoàn 21 Xung-Phong đầu năm 1955 khi vào Nam (14)<br /><br /><br /><br />Ngày 16 tháng 6 năm 1954, Chí-sĩ Ngô-Ðình-Diệm về nước thành-lập Chính-Phủ do sự ủy-nhiệm của Quốc-trưởng Bảo-Ðại bằng sắc-lệnh số 38/QT. Bởi những thế-lực riêng biệt do quân-đội Pháp cố tình tạo ra trước khi rút về nước theo hiệp-định Genève ngày 21 tháng 7 năm 1954, quân-đội QGVN bị chia rẽ thật trầm-trọng. Theo Ðoàn-Thêm trong tài-liệu đã dẫn, ngày 21 tháng 3 năm 1955, trên hệ-thống đài phát-thanh Pháp-Á cũng như đài phát-thanh Quốc-gia SàiGòn, Thủ-tướng Ngô-Ðình-Diệm đã phải cương-quyết tuyên-bố:<br />“Phải thống-nhất quân-đội, không có lực-lượng riêng biệt; phải thống-nhất hành-chánh, không có địa-phương tự-trị; phải thống-nhất tài-chánh, không thể thâu những sắc-thuế do địa-phương tự-động đặt ra.”<br />Ngoại trừ quân-đội Cao-Ðài thực-tâm qui-thuận Chính-phủ, ngày 28 tháng 3 năm 1955, Thủ-tướng Diệm ra lệnh cho quân-đội QGVN tấn-công loại bỏ quân-đội Bình-Xuyên và ngày 5 tháng 6 năm 1955 loại trừ luôn quân-đội Hòa-Hảo.<br />Báo-chí trong nước, ngoài nước thời đó đều ca ngợi tài lãnh-đạo anh-minh của Thủ-tướng Diệm; vì chỉ trong vòng một năm thôi mà Ông đã gom được quân-đội về một mối, chấm dứt nạn “Sứ-quân thời-thượng”. Thắng-lợi này cũng dọn đường cho cuộc trưng-cầu dân-ý ngày 23 tháng 10 năm 1955 truất-phế Bảo-Ðại và suy-tôn Thủ-Tướng Ngô-Ðình-Diệm lên chức-vụ Quốc-Trưởng. Chủ-tịch Thượng-viện Hoa-Kỳ Lyndon Baines Johnson cũng cổ-vũ Tổng-Thống Diệm là Churchill của thập niên...người lãnh-đạo tiền-phong cho nền tự-do ở Ðông-Nam-Á...(15).<br />Dụ số 2 ấn-định ngày 26 thắng10 năm 1955 là ngày Quốc-Khánh của nền Ðệ Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa và Quốc-trưởng lấy danh-hiệu là Tổng-Thống VNCH. Quân-Ðội QGVN trở thành Quân-lực VNCH (The Republic of Vietnam Armed Forces = RVNAF)<br />Ðến cuối năm 1955, Hải-quân thuần-túy Việt-Nam có 3,858 người kể cả 1291 Thủy-quân-lục-chiến với Tiểu-đoàn 1 Quái-Ðiểu và Tiểu-đoàn 2 Trâu-Ðiên.<br />Ðầu năm 1956, Tổng-Thống VNCH chấp-thuận dự-án Giang-lực dự-trù thành-lập 5 Hải-đoàn Xung-Phong, mỗi hải-đoàn sẽ được trang-bị:<br />· 05 Trung-vận-đỉnh LCM6 (Landing craft Mechanized)<br />· 04 Tiểu-vận-đỉnh LCVP (Landing craft vehicle and personnel)<br />· 05 Hô-bo vận-tốc nhanh (Hors-bord)<br />· 02 Quân-vận-hạm LCU (Landing craft utility)<br />· 02 Tàu kéo quân-cảng YTL (harbor craft)<br />· 01 Giang-pháo-hạm LSIL (Landing ship infantry large) tăng-phái.<br />Ðó là các Hải-Ðoàn 21 Xung-Phong (hậu-cứ tại Mỹ-Tho), Hải-Ðoàn 23 Xung-Phong (hậu-cứ tại Vĩnh-Long)Hải-Ðoàn 24 Xung-Phong (hậu-cứ tại Cát-Lái) Hải-Ðoàn 25 Xung-Phong (hậu-cứ tại Cần-Thơ và Hải-Ðoàn 26 Xung-Phong (hâu-cứ tại Long-Xuyên).<br />Riêng về Hải-lực, đến cuối năm 1957, số chiến-hạm được Pháp chuyễn-giao lên 21 chiếc gồm:<br />· 05 Hộ-tống-hạm PC (Patrol Craft or submarine chaser) là:<br />HQ.01-CHI-LĂNG<br />HQ.02-VẠN-KIẾP<br />HQ.03-ÐỐNG-ÐA<br />HQ.04-TUY-ÐỘNG<br />HQ.05-TÂY-KẾT.<br />· 03 Trục-lôi-hạm YMS (Yard MineSweeper) là:<br />HQ.111-HÀM-TỬ<br />HQ112-CHƯƠNG-DƯƠNG<br />HQ.113- BẠCH-ÐẰNG.<br />· 02 Trợ-chiến-hạm LSSL (Landing Ship Support Large) là:<br />HQ.225-NỎ-THẦN(Nguyễn-Văn-Trụ)<br />HQ.226-LINH-KIẾM(Lê-Trọng-Ðàm).<br />· 05 Giang-pháo-hạm LSIL (Landing Ship Infantry Large) là:<br />HQ.327-LONG-ÐAO<br />HQ.328-THẦN-TIỂN<br />HQ.329-THIÊN-KÍCH<br />HQ.330-LÔI-CÔNG<br />HQ.331-TẦM-SÉT.<br />· 04 Hải-vận-hạm LSM (Landing Ship Medium) là:<br />HQ.400-HÁT-GIANG<br />HQ.401-HÀN-GIANG<br />HQ.402-LAM-GIAN<br />HQ.403-NINH-GIANG.<br />· 01 Hỏa-vận-hạm YOG (Oiler) là:<br />HQ.470.<br />· 01 Huấn-luyện-hạm AKL (Loại tàu vận-chuyễn) là:<br />HQ.451-QUÁ-GIANG<br /><br />2- GIAI-ÐOẠN CHẬM-CHẠP PHÁT-TRIỂN (1958-1967)<br />Năm 1958 được chọn làm mốc thời-gian vì những sự-kiện quan-trọng sau đây:<br />Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân NHa-Trang được Pháp chuyễn-giao toàn bộ lại cho Hải-Quân Việt-Nam.<br />Hải-Quân Việt-Nam tăng lên 5,000 người<br />Khóa 8 Sĩ-qian Nha-Trang (Ðệ I Hổ-Cáp) có 50 sinh-viên nhập học với giáo-sư, giảng-viên và Huấn-luyện-viên loàn-toàn là người Việt-nam.<br />Quân-số Giang-lực gia-tăng 50% cho 5 Hải-Ðoàn Xung-Phong trang-bị 96 chiến-đỉnh đủ loại.<br />Ðầu năm 1960, Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân phúc-trình đặc-biệt lên Bộ Tộng-Tham-Mưu về tiểu-đoàn 603 Việt-Cộng tức Tập-Ðoàn Ðánh Cá Sông Gianh đã lén-lút xâm-nhập vào Duyên-khu Ðà-Nẳng. Tổng-Thống Diệm chấp-thuận thành-lập ngay 4 Ðội Hải-Thuyền đầu-tiên: Ðội 11 Cửa-Việt, Ðội 12 Cửa Thuận-An, Ðội 13 Cửa Tư-Hiền, Ðội 14 Cửa Hội-An. HQ/Ðại-úy Nguyễn-Văn-Thông (khóa 3 Sĩ-Quan Nha-Trang) chỉ-huy huấn-luyện 400 tuần-viên sơ-khởi cho 80 ghe đủ loại.<br />Năm 1962, Hải-Ðoàn 22 Xung-Phong được thành-lập, HQ/Ðại-úy Huỳnh-Duy-Thiệp (khóa 7 Sĩ-Quan Nha-Trang) là Chỉ-Huy-Trưởng đầu tiên.<br />Ðến cuối năm này, Lực-lượng Hải-Thuyền tăng lên 28 đội đóng dọc theo duyên-hải với 800 Tuần-viên, rồi được cải-danh thành Duyên-Ðoàn khi quân-số tăng lên đến 4,000 người.<br />Ðến đầu năm 1963, HQ/Ðại-tá Hồ-Tấn-Quyền, Tư-Lệnh Hải-Quân mở cuộc hành-quân thủy-bộ bình-định Năm-Căn: Chiến-dịch SÓNG-TÌNH-THƯƠNG.<br /><br /><br /><br />Bước ngoặt chính-trị năm 1963:<br />Ðược sự ủng-hộ của Ðại-sứ Mỹ Henry Cabot Lodge (vua tổ-chức đảo-chánh), các tướng-lãnh Việt-nam đã làm cuộc đảo-chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 giết chết Tổng-Thống Diệm và chấm dứt nền Ðệ I VNCH (16). Trong cuộc chính-biến này, HQ/Ðại-tá Hồ-Tấn-Quyền, Tư-Lệnh Hải-Quân cũng bị một sĩ-quan đàn em chối bỏ truyền-thống quân-chủng ám-sát chết (17).<br />Vì khônng còn lãnh-tụ nào sáng giá hơn Ông Diệm, nên tình-hình chính-trị miền Nam trở nên bất ổn. Quân-đội phân-hóa, đảo-chánh liên-miên, sinh-viên học-sinh biểu-tình hàng ngày. Lợi-dụng tình-trạng rối-ren tại thành-phố và hoang-phế 7000 ấp chiến-lươc tại nông-thôn, Việt-Cộng gia tăng cường-độ ám-sát khủng-bố và bắt đầu tổ-chức đánh lớn cấp trung-đoàn. Cuối năm này, Hải-quân mất luôn quyền chỉ-huy Liên-đoàn Thủy-quân lục-chiến khi binh chủng thống-thuộc này trở thành Lử-đoàn tổng-trừ-bị do Trung-tá Lê-Nguyên-Khang làm Tư-Lệnh và bị áp-đặt trực-thuộc Bộ Tổng-Tham-Mưu về mọi mặt giống như binh-chủng Nhảy-dù của Không-quân.<br />Ðến hết năm 1964, Hải-quân cũng chưa thoát khỏi quỉ-đạo lục-đục trên đây, các sĩ-quan khóa 2 Nha-Trang gồm HQ/Trung-tá Nghiêm-Văn-Phú, Chỉ-huy-trưởng Hải-lực; HQ/Trung-tá Ðỗ-Quý-Hợp, Chỉ-huy-trưởng Giang-lực; HQ/Trung-tá Khương-Hữu-Bá, Chỉ-huy-trưởng Duyên-lực; HQ/Trung-tá Ðặng-Cao-Thăng, (khóa 1 Brest), Giám-đốc Hải-Quân Công-Xưởng đồng lòng lật đổ Phó Ðề-Ðốc Chung-Tấn-Cang,Tư-lệnh Hải-Quân về vụ thủy-cước.<br />Sau ngày 8 tháng 3 năm 1965, quân-đội Hoa-Kỳ đổ-bộ lên hải-cảng Ðà-Nẳng, Hải-quân có 7 Hải-Ðoàn Xung-Phong. Với bảng cấp số (SOP) mới 1965, Hải Ðoàn Xung-Phong được cải danh là Giang-Ðoàn Xung-Phong (River Assault Group = RAG) có quân-số 150 người. Sáu trong bảy Giang-đoàn loại này được trang bị:<br />· 01 Giang-đỉnh chỉ-huy (Commandement Monitor)<br />· 01 Chiến-đấu-đỉnh (Combat Monitor)<br />· 05 Trung-vận-đỉnh LCM6.<br />· 06 Tiểu-vận-đỉnh LCVP.<br />· 06 Xung-kích-đỉnh STCAN or FOM.<br />Riêng Giang-đoàn 27 Xung-Phong trang-bị hơi khác biệt với 6 Giang-đoàn kia: 01 Giang-đỉnh chỉ-huy + 01 Chiến-đấu-đỉnh + 06 Quân-vận-đỉnh LCM8 và 10 Tiểu-đỉnh RPC (River Patrol Craft) (18). Quân-số Giang-lực lúc bấy giờ tăng thành 1150 người kể cả Bộ Chỉ-huy Giang-lực và 3 Ban Chỉ-huy hành-chánh Liên Giang-đoàn (type).<br />Ngày 19 tháng 6 năm 1965 được gọi là Ngày Quân-Lực do sắc-lệnh của Chủ-tịch Ủy-ban Hành-Pháp Trung-ương (tương-đương với Thủ-tướng Chính-phủ) Nguyễn-Cao-Kỳ ban-hành để chấm dứt thời-kỳ khủng-hoảng chính-trị kéo dài. (19).<br />Gần cuối năm, Lực-lượng Hải-thuyền 4000 ngưởi được sát-nhập vào Hải-quân. Tuần-viên cải danh thành Ðoàn-viên kèm theo cấp số chánh-thức cho mỗi Duyên-đoàn là 03 Ghe chủ-lực, 03 ghe di-cư và 16 ghe chèo.<br />Trong 7 năm đầu, Hải-quân tiến-triển chậm-chạp nhưng trong 3 năm sau, Hải-lực đã nhận thêm một số chiến-hạm đáng kể:<br />· 03 Trục-lôi-hạm MSC (Mine Sweeper Craft) là:<br />HQ.114-HÀM-TỬ II<br />HQ.115- CHƯƠNG-DƯƠNG II<br />HQ.116-BẠCH-ÐẰNG II.<br />· 01 Hộ-tống-hạm PC là:<br />HQ.06-VÂN-ÐỒN.<br />· 02 Hộ-tống-hạm PCE (Patrol Craft Escort) là:<br />HQ.07-ÐỐNG-ÐA<br />HQ.12- NGỌC-HỒI<br />· 04 Hộ-tống-hạm MSF (Mine Sweeper Fleet) là:<br />HQ.08-CHI-LĂNG II<br />HQ.09-KỲ-HÒA<br />HQ.10-NHỰT-TẢO<br />HQ.11-CHÍ-LINH.<br />· 03 Hải-vận-hạm LSM (Landing Ship Medium) là:<br />HQ.404-HƯƠNG-GIANG<br />HQ.405-TIỀN-GIANG<br />HQ406-HẬU-GIANG.<br />· 03 Dương-vận-hạm LST (Landing Ship Tank) là:<br />HQ.500-CAM-RANH<br />HQ.501-Ðà-NẲNG<br />HQ 502-THỊ-NẠI.<br />· 20 Tuần-duyên-hạm PGM (Patrol Gunboat) là:<br />HQ.600-PHÚ-DỰ.<br />HQ.601-TIÊN-MỚI.<br />HQ.602-MINH-HOA.<br />HQ.603-KIẾN-VÀNG.<br />HQ.604-KEO-NGỰA.<br />HQ.605-KIM-QUY.<br />HQ.606-MAY-RÚT.<br />HQ.607-NAM-DU.<br />HQ.608-HOA-LƯ.<br />HQ.609-TÔ-YẾN.<br />HQ.610-ÐỊNH-HẢI.<br />HQ.611-TRƯỜNG-SA.<br />HQ.612-THÁI-BÌNH.<br />HQ.613-THỊ-TỨ.<br />HQ.614-SONG-TỬ.<br />HQ.615-TÂy-SA.<br />HQ.616-HOÀNG-SA.<br />HQ.617-PHÚ-QUÝ.<br />HQ.618-HÒN-TRỌC.<br />HQ.619-THỔ-CHÂU.<br />· 02 Hỏa-vận-hạm YOG là:<br />HQ.471.<br />HQ.472.<br />· 05 Trợ-chiến-hạm LSSL là:<br />HQ.227-LÊ-VĂN-BÌNH<br />HQ.228-ÐOÀN-NGỌC-TẢNG.<br />HQ.229-LƯU-PHÚ-THỌ.<br />HQ.230-NGUYỄN-NGỌC-LONG..<br />HQ.231-NGUYỄN-ÐỨC-BỔNG.<br />Như vậy, vào cuối năm 1967, Hải-lực có tổng-số chiến-hạm là 64 chiếc.<br /><br />3- GIAI-ÐOẠN NHANH CHÓNG BÀNH-TRƯỚNG (1968-1975).<br />Ðầu năm 1968, Việt-cộng mở cuộc Tổng-nổi-dậy, công-kích trên toàn lãnh-thổ VNCH; Hải-quân với quân-số 30,000, kể cả 7,500 sĩ-quan, không những bảo-toàn được lực-lượng đông-đảo như vậy mà còn yểm-trợ hữu-hiệu cho các đơn-vị bạn tái chiếm nhiều vị-trí bị lọt vào tay địch trong những ngày Tết Mậu-Thân.<br />Cũng trong năm này, 3 trung-tâm huấn-luyện được phân-nhiệm rõ-rệt: Trung-Tâm Huấn-Luyện Nha-Trang đào-tạo sĩ-quan, Trung-Tâm huấn-Luyện Cam-Ranh dành cho Hạ-sĩ-quan và Ðoàn-viên, Trung-Tâm Huấn-Luyện Bổ-Túc Sài Gòn trau-dồi thêm kiến-thức chuyên-môn cho các cấp.<br />Ðến năm 1969, để theo kịp chương-trình “Việt-Nam hóa chiến-tranh” (Accelerated turnover to the Vietnamese = ACTOV), Bộ Tư-Lệnh Hải-quân tổ-chức HÀNH-QUÂN LƯU-ÐỘNG BIỂN và HÀNH-QUÂN LƯU-ÐỘNG SÔNG. Trong tổ-chức Hành-Quân Lưu-Ðộng Sông, 3 Lực-lượng tác-chiến trong sông được thành-lập:<br />· Lực-lượng Thủy-Bộ, tổ-chức hành-chánh (type) đóng tại Bình-Thủy, khi trở thành Ðặc-Mhiệm (Task) gọi là Lực-Lượng Ðặc-Nhiệm 211.<br />· Lực-Lượng Tuần-Thám, tổ-chức hành-chánh đóng tại Mỹ-Tho, khi trở thành Ðặc-Nhiệm gọi là Lực-Lượng Ðặc-Nhiệm 212.<br />· Lực-Lượng Trung-Ương, tổ-chức hành-chánh đóng tại Ðồng-Tâm, khi trở thành Ðặc-Nhiệm gọi là Lực-Lượng Ðặc-Nhiệm 214.<br />Tư-Lệnh Hải-Quân vùng VI Sông-Ngòi kiêm Tư-Lệnh Hạm-Ðội Ðặc-Nhiệm 21 khi chỉ-huy cả 3 Lực-lượng trên cùng 7 Giang-Ðoàn Xung-Phong và các cơ-sở tiếp-vận trong vùng châu-thổ Cữu-Long, quân-số lên đến 10,500 người. Tư-Lệnh vùng III Sông-Ngòi có 5 Giang-đoàn Xung-Phong cơ-hữu, cũng được sự tăng-phái của các Lực-lượng Ðặc-nhiệm 211,212 và 214. (20)<br />Hoàn tất chương-trình ACTOV năm 1972, Hành-quân Lưu-động Biển đã nhận thêm 20 chiến-hạm:<br />· 04 Dương-vận-hạm LST là:<br />HQ.503-VŨNG-TÀU<br />HQ.504-QUI-NHƠN<br />HQ.505-NHA-TRANG<br />HQ.800-MỸ-THO.<br />· 02 Cơ-xưởng-hạm LST là:<br />HQ.801-CẦN-THƠ<br />HQ.802-VĨNH-LONG.<br />· 01 Hộ-tống-hạm MSFlà:<br />HQ.13-HÀ-HỒI.<br />· 01 Hộ-tống-hạm PCE là:<br />HQ.14-VẠN-KIẾP.<br />· 03 Hỏa-vận-hạm YOG là:<br />HQ.472<br />HQ.473<br />HQ.475.<br />· 02 Khu-trục-hạm tiền-thám DER (Destroyer Radar Picket Escort) là<br />HQ.1-TRẦN-HƯNG-ÐẠO<br />HQ.4-TRẦN-KHÁNH-DƯ<br />· 07 Tuần-dương-hạm WHEC (White High Endurance Cutter) là:<br />HQ.2-TRẦN-QUANG-KHẢI<br />HQ.3-TRẦN-NHẬT-DUẬT<br />HQ.5-TRẦN-BÌNH-TRỌNG<br />HQ.6-TRẦN-QUỐC-TOẢN<br />HQ.15-PHẠM-NGŨ-LÃO<br />HQ.16-LÝ-THƯỜNG-KIỆT<br />HQ.17-NGÔ-QUYỀN<br />· 05 Hải-đội Duyên-Phòng được chuyễn-giao 26 Tuần-duyên-đỉnh WPB (Coastal Patrol Boat) đánh số từ HQ.700 đến HQ.725 và 107 Duyên-tốc-đỉnh PCF (Patrol Craft Fast).<br />Cuối năm 1972, quân-số hải-quân VNCH tăng thành 41,000 người. Theo Jane’s Fighting Ships 1972-1973, HQ/Ðại-tá John More xếp sự lớn mạnh của lực-lượng Hải-quân VNCH vào hàng thứ 9 trong các cường-quốc Hải-quân trên thế-giới.<br />Ðầu năm 1975, lực-lượng Hải-quân VNCH gồm:<br />· 05 vùng Duyên-hải với 133 chiến-đỉnh và 500 ghe đủ loại.<br />· 02 vùng Sông-ngòi và 03 lực-lượng tác-chiến trong sông với trên 950 chiến-đỉnh đủ loại.<br />· Hạm-đội Biển với 84 chiến hạm.<br />· Quân-số: 43,000 người.<br />Giữa tháng 4 năm 1975, ngay sau khi trở lại nhậm-chức Tư-Lệnh Hải-Quân lần thứ hai, Phó Ðô-đốc Chung-Tấn-Cang chỉ-định HQ/Ðại-tá Lê-Hữu-Dõng thành-lập cấp-tốc Lực-Lượng Ðặc-Nhiệm 99 với sự phối-hợp của các Giang-đoàn 22 Xung-Phong, Giang-đoàn 42 Ngăn-Chặn và Giang-Ðoàn 59 Tuần-Thám gồm khoảng 50 chiến-đỉnh để giải-tỏa áp-lực địch trong phạm-vi trách-nhiệm của Hải-quân.<br /><br />__________________________<br /><br />Chú-Thích:<br /><br />(6)- Trần-trong-Kim. việt-Nam Sử-Lược. Saigon thư-xã 1962. Chương 7: Quân-đội Triều Nguyễn, trang 510-520.<br />Nguyễn-hợp-Minh. Lịch-sử giữ nước của dân-tộc Việt-Nam. Melbourne 2000. Tập 6, trang 285-288.<br />Ðúc kết tóm-lược: Sau khi ký hiệp-ước Thiên-Tân ngày 27 tháng 6 năm 1858 với Trung-Hoa, Chính-Phủ thực-dân Pháp chỉ-định Ðề-đốcRigault de Genouilly điều-động 13 chiến-hạm Pháp và 01 chiến-hạm Tây-Ban-Nha do HQ/Ðại-tá Lanzarote làm Hạm-trưởng, kéo sang xâm-lược Việt-Nam. De Genouilly được phong chức Phó Thủy-sư Ðô-đốc, Tổng chỉ-huy Lực-lượng Thực-dân Viễn- chinh tại nước ta từ ngày 1 tháng 9 năm 1858 đến ngày 1 tháng 11 năm 1859.<br />(7)- Bộ Tổng-tham-mưu phòng5. Quân-sử tập 4: Quân-lực hình-thành 1946-1955. Saigon 1972.<br />(8)- Ðoàn-Thêm. Hai mươi năm qua, việc từng ngày. Saigon 1966, trang 44-45.<br />(9)- Ðoàn-Thêm. Tài-liệu đã dẫn, trang 52.<br />(10)- Ðoàn-Thêm ghi nhận trang 82, tái-liệu đã dẫn: Từ nay, quân-đội VN thuộc hẳn quyền Quốc-trưởng Bảo-Ðại, nhưng có cơ-quan liên-lạc với quân-đội Liên-hiệp Pháp.<br />Cũng ngày hôm đó, Thống-tướng 5 sao Jean de Lattre de Tassigny, được Chính-phủ Pháp cử sang làm Tổng-Tư-Lệnh Quân-Ðội kiêm Cao-Ủy pháp tại Ðông-Dương.<br />(11)- Trung-tướng Tôn-Thất-Ðính. Hồi-ký 20 năm binh-nghiệp. CA Chánh-đạo 1988, trang 29-30.<br />Ðoàn-Thêm. Tài-liệu đã dẫn, trang 44, 57, 69 và 112.<br />Ðúc-kết tóm-lược: Ông Phan-Văn-Giáo, một nhân-vật thân-tín của Cựu-hoàng Bảo-Ðại, tuy không tốt-nghiệp một trường võ-bị nào nhưng có khả-năng rất cao về tổ-chức quân-đội, giúp Quân-Ðội VNCH sớm hình-thành. Qua nhiều Chính-phủ từ Nguyễn-Văn-Xuân đến Nguyễn-Văn-Tâm, Ông đã được giao-phó nhiều chức-vụ thật quan-trọng:<br />Ngày 2 tháng 6 năm 1948: Quốc-vụ-khanh, Tổng-trưởng kiêm Tổng-trấn Trung-phần, đặc-trách thành-lập Việt-Binh-Ðoàn<br />Ngày 3 tháng 7 năm 1949: Thủ-hiến Trung-Việt bành-trướng Việt-Binh-Ðoàn thành Quân-Ðội QGVN.<br />Ngày 4 tháng 4 năm 1950: Tổng-Thanh-tra Quân-đội QGVN với quân-hàm Trung-tướng Giả-định (être assimilé au grade de Général), trực-thuộc Quốc-trưởng (Sắc-lệnh số 31/QT).<br />Ngày 25 tháng 6 năm 1952: Phó Thủ-tướng kiêm Tổng-trưởng Thông-tin.<br />(12)- Ðoàn-Thêm. Tài-liệu đã dẫn, trang 86.<br />(13)- Hải-đoàn Xung Phong, Hải-quân Pháp gọi là DINASSAUT (Division Naval d’assault), xin xem phần quan-niệm về tổ-chức Dinassault trong tập này, trang .... Lúc Pháp chuyễn-giao, các Hải-đoàn chưa có số nên tạm thời lấy tên địa-phương đồn-trú. Hải-đoàn Xung-phong Cần-Thơ và Vĩnh-Long, mỗi đơn-vị nhận:<br />01 giang-đỉnh chỉ-huy (Commandement Monitor LCM6.<br />02 Trung-vận-đỉnh LCM6 (Landing craft Mechanized)<br />02 Tiểu-vận đỉnh LCVP (Landingcraft Vehicle and Personnel).<br />(14)- HQ/Tr/tá Vũ-Hữu-San. Lược-sử tổ-chức Hải-quân VNCH. Tài-liệu chuyễn cho Hội-Ðồng Hải-Sử 2000, trang 4-6.<br />(15)- Karnow, Stanley. Viuetnam a story. Viking London 1991, trang 222 ghi lại nhận-định của Lyndon B.Johnson như sau: “President Diem is the Churchill of the decade... in the vanguard of those leaders who stand for freedom...”.<br />(16)- Karnow, Stanley. Tài-liệu đã dẫn, nhận-xét về Tổng-Thống Diệm:”... into South Vietnam’s military and Police machinery, leaving only small fraction for economie decelopment; and he was less interested in building an army to fight Viet-Cong guerrillas than in forming conventional units that would protect him against his rival in Saigon...”. Karnow cựu thông-tín-viên cho các tờ Times, Life và The Washington Post kiêm chủ-nhiệm The New Republic về vấn-đề Ðông-Nam-Á, nổi tiếng qua quyển “Mao and China” năm 1972 vì những sự thật được phơi-bày trong đó. Nhưng đến quyển Vietnam a story xuất-bản năm 1983, Ông vấp phải nhiều sai-sót nghiêm-trọng, có lẽ vì không được ở Việt-Nam lâu bằng ở Trung-Cộng. Ðiển-hình là ông không biết Liên-Binh Phòng-Vệ dinh Tổng-Thống có mấy Tiểu-đoàn và Lực-lượng Ðặc-biệt của Trung-tá Lê-Quang-Tung có bao nhiêu Ðại-đội thuộc Cần-Lao?. Ông cũng không biết đến quốc-sách 7 ngàn Ấp Chiến-Lược với 8 triệu dân-quân đang ngày đêm trực-diện chiến-đấu với Cộng-Sản tại nông-thôn hẻo lánh. Thành thử Ông nhận-định hàm-hồ như vậy cũng phải!<br />(17)- Nghi-phạm ám-sát HQ/Ðại-tá Quyền (khóa 1 Sĩ-quan Nha-Trang) là HQ/Thiếu-tá Trương-Ngọc-Lực (khóa 2 Sĩ-quan Nha-Trang). Các Tướng-lãnh tổ-chức cuộc đảo-chánh ngày 1 tháng 11 năm1963 đã sai-lầm trong quyết-định dùng một sĩ-quan đàn em sát-hại sĩ-quan đàn anh mà không đếm xỉa gì đến truyền-thống quân-chủng Hải-quân. Ngay khi nhận thấy hậu-quả nghiêm-trọng về cái chết của Tư-Lệnh Hải-Quân. Hội-đồng tướng-lãnh vội-vã thăng-cấp Trung-tá Bộ-Binh cho Lực rồi đẩy ra nước ngoài để tránh búa rìu nguyền-rủa của cả Hải-quân vào thời đó.<br />(18)- Tham-chiếu quyết-định của Hội-Ðồng tu-chính Hải-qui do Phó Ðề-đốc Lâm-Nguơn-Tánh làm chủ-tịch, BTL/HQ/P5 ban-hành một tài-liệu căn-bản về việc định danh (đặt tên) cho các chiến-hạm và chiến-đỉnh vào tháng 6 năm 1971. Tên các chiến-đỉnh trong tập này được viết theo đúng tinh-thần sự-vụ văn-thư đã phổ-biến. Xin xem chương-trình ACTOV trong tập này, trang ....<br />(19)- Trên thế-giới, các quốc-gia văn-hiến chọn ngày truyền-thống Quân-đội (Ngày Quân-Lực) là ngày đề cao giá-trị tinh-thần bất-khuất, anh-dũng hy-sinh và tình đoàn-kết chiến-đấu vì mục-tiêu cao-cả của người chiến-binh mình. Úc-Ðại-Lợi (Australia) chẳng hạn, Lưỡng-Viện Quốc-Hội Úc đã chọn ngày 25 tháng 4 hàng nam làm ngày ANZAC. Cái độc-đáo của ngày Quân-lực Úc là ngày bại trận tổn-thất đến 5000 chiến-binh nhưng lại nói lên tinh-thần keo-sơn đoàn-kết, hào-hùng chiến-đấu của Liên-quân Úc và Tân-Tây-Lan trên chiến-trường quá bất lợi Gallipoli (Thổ-Nhỉ-Kỳ) vào ngày 25 tháng 4 năm 1915. Còn ngày Quân-lực 19 tháng 6 năm 1965 của nền Ðệ II VNCH chỉ là ngày mà Chủ-tịch Ủy-ban Lãnh-đạo Quốc-gia Trung-tướng Nguyễn-Văn-Thiệu và Chủ-tịch Ủy-ban hành-pháp Trung-ương Thiếu-tướng Nguyễn-Cao-Kỳ đồng ý với nhau là thôi, không làm đảo-chánh nữa vì đã loại bỏ chính-quyền dân-sự Phan-Khắc-Sửu (Tổng-thống) và Phan-Huy-Quát (Thủ-tướng) rồi. Ngày truyền-thống của Quân-lực VNCH mà chỉ có hai người quyết-định giống như trong thời-kỳ Quân-chủ chuyên-chế. Thật hiếm thấy thay!<br />(20)- Vùng III Sông-Ngòi có 5 Giang-Ðoàn Xung-phong trực-thuộc:<br />Giang-Ðoàn 22 Xung-Phong và Giang-Ðoàn 28 Xung-Phong hợp thành Liên Giang-Ðoàn trú đóng tại Nhà-Bè.<br />Giang-Ðoàn 24 Xung-Phong và Giang-Ðoàn 30 Xung-Phong hợp thành Liên Giang-Ðoàn trú đóng tại Long-Bình.<br />Giang-Ðoàn 27 Xung-Phong, tăng-phái thường-trực cho Ðặc-khu Rừng-Sát. Trú đóng tại Nhà-Bè.<br />Vùng IV Sông-Ngòi có 7 Giang-Ðoàn Xung-phong trực-thuộc:<br />Giang-Ðoàn 21 Xung-Phong và Giang-Ðoàn 33 Xung-Phong hợp thành Liên Giang-Ðoàn đồn-trú tại Mỹ-Tho.<br />Giang-Ðoàn 23 Xung-Phong và Giang-Ðoàn 31 Xung-Phong hợp thành Liên Giang-Ðoàn đồn-trú tại Vĩnh-Long.<br />Giang-Ðoàn 25 Xung-Phong và Giang-Ðoàn 29 Xung-Phong hợp thành Liên Giang-Ðoàn đồn-trú tại Cần-Thơ.Giang-Ðoàn 26 Xung-Phong, tăng-phái thường-trực cho BTL/Lực-lượng Ðặc-nhiệm 212 vùng biên-giới Việt-Miên, đồn-trú tại Long-Xuyên.<br /><br />__________________________________<br /><br />TÀI-LIỆU CHỌN-LỌC THAM-KHẢO<br /><br />Tập này không có phần phụ-đính DANH-MỤC (Index) để đồng-nhất và dể-dàng tra-cứu, tên các tác-giả nước ngoài sẽ được ghi HỌ trước rồi mới đến TÊN giống như tên các tác-giả Việt-Nam, trong phần ghi chú.<br />1- Việt-Nam sử-lược - Trần-Trọng-Kim. Saigon Thư-xã 1962.<br />2- Lịch-sử giữ nước của dân-tộc Việt-Nam - Nguyễn-Hợp-Minh. Melbourne 2000, tập 6.<br />3- Quân-sử - Bô TTM/Phòng5-1972, tập 4 quân-lực hình-thành Saigon 1972.<br />4- Hai Mươi Năm Qua, việc Từng Ngày 1945-1964 - Ðoàn Thêm. Saigon 1966.<br />5- Tôn-Ngô binh-pháp - Ngô-Văn-Triệu. Saigon 1973.<br />6- Trấn-Hưng-Ðạo binh-thư yếu-lược - Nguyễn-Ngọc-Tỉnh. Paris 1988.<br />7- Hoạt-động trong sông của Hải-quân VNCH. Phó Ðề-đốc Ðặng-Cao-Thăng, bài viết cho Hải-sử 2000 (HS-2000)<br />8- Giang-Ðoàn Xung-Phong 22, 25 và 29. HQ/Ðại-tá Lê-Hữu-Dõng, bài viết cho HS-2000<br />9- Lược-sử tổ-chức Hải-quân VNCH. HQ/Trung-tá Vũ-Hữu-San, bài viết cho HS-2000<br />10- Giang-Ðoàn 26 Xung-Phong. HQ/Trung-tá Trần-Ðỗ-Cẫm, bài viết cho HS-2000.<br />11- Trận Ba-Rài. HQ/Trung-tá Phan-Lạc-Tiếp, bài viết cho HS-2000.<br />12- Trung-Ðoàn U-Minh-Hạ. Ðộc-Hành. Việt-Luận số 297 Sydney 5/1988.<br />13- Hồi-ký 20 năm binh-nghiệp. Trung-tướng Tôn-Thất-Ðính. CA Chánh-đạo 1988.<br />14- Cuộc-chiến dang-dở. Tướng Trần-Văn-Nhựt. CA 2003.<br />15- Việt-Nam Máu Lửa. Nghiêm-Kế-Tổ. Mai-Lĩnh Saigon 1954.<br />16- Kinh-nghiệm chiến-trường chống đặc-công-thủy. Ban Hải-sử. BTL/HQ/P5 Saigon 1970.<br />17- 1945 Lạc đường vào lịch-sử. Nguyễn-Manh-Côn. Giao-điểm Saigon 1965.<br />18- Ðường mòn trên biển. Nguyễn-Tư-Ðương. Hà-Nội 2002.<br />19- The Ford Foundation Fellowship USA and France - Cao-Thế-Dung 1976.<br />20- Reassessing the ARVN - Lewis Sorley. VN Magazine April 2003.<br />21- Nation in arms - Greg Lockhart. Australia 1989.<br />22- The Vietnam war for dummies - Ronald B.Frankum, Jr and Stephen F. Maxner. Wiley Publishing Newyork 2003.<br />23- Vietnam war almanac - Harrys Summer. Jr.USA 1982.<br />24- Vìetnam a history - Stanley Karnow. Viking Newyork 1983.<br />25- Encyclopedia of the Vietnam war - Spencer C.Tucker. London 1999.<br />26- Vietnam: A visual encyclopedia - Philip Gutzman. London 2002.<br />27- The brown water navy - Victor Croizat. Blandford Press UK 1984.<br />28- The naval war in Vietnam - Anthony Preston. USA 1985.<br />29- Brown water, Black berets - Thomas J.Cutler. USA 1988.<br />30- Dictionary of the Vietnam war by Marc Leepson with Hanaford. USA 1996.<br />31- Victory at any cost - Cecil B.Currey. Great Britain 1997.<br /><br />Nguyễn Văn Ơn</strong>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-23757890739244913672008-03-28T14:20:00.000-07:002008-12-11T03:12:38.278-08:00Nha Ky Thuat / The Strategic Technical Directorate / English Version<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEivVeckQp2n2j_iUgTOsr3N8sfE9H_j4Ojx6AQTBsvfmFATu7ipGIFFHpLqo42uakewY-U7vp_4DkKIRh6FLnSDnjfQZiWZqWV6p76bBiXrOGNS1crvAg9svYbdSZhVbvTnfZa0a3A3ayQ/s1600-h/TongThamMuu.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEivVeckQp2n2j_iUgTOsr3N8sfE9H_j4Ojx6AQTBsvfmFATu7ipGIFFHpLqo42uakewY-U7vp_4DkKIRh6FLnSDnjfQZiWZqWV6p76bBiXrOGNS1crvAg9svYbdSZhVbvTnfZa0a3A3ayQ/s400/TongThamMuu.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213267392814656002" /></a><br /><br /><strong>NHA KY THUAT<br />THE STRATEGIC TECHNICAL DIRECTORATE<br />AND<br />REPUBLIC OF VIETNAM SPECIAL OPERATION FORCES<br />In early 1956 the French built Commando School at Nha Trang was re-established with US military assistance to provide physical training and ranger instruction for up to 100 students. Early the following year President Ngo Dinh Diem ordered the creation of a special unit to conduct clandestine external operations. Initial parachute and communication training for 70 officers and sergeants was conducted at Vung Tau; 58 of these later underwent a four month commando course at Nha Trang under the auspices of a US Army Special Forces Mobile Training Team. Upon completion, they formed the Lien Doi Quang Sat so 1 (I Observation Unit) on I November 1957 at Nha Trang. The unit was put under the Presidential Liaison Office, a special intelligence bureau controlled by President Diem and outside the normal ARVN command structure. The commander was Lt. Col. Le Quang Tung, an ARVN airborne officer and Diem loyalist. Many of the Unit's members came originally from northern Vietnam, reflecting its external operations orientation.<br />In 1958 the Unit was renamed the Lien Doan Quang Sat so 1, or I Observation Group, reflecting its increase to nearly 400 men in December. By that time the Group was seen as an anti Communist stay behind force in the event of a North Vietnamese conventional invasion; however, because of its privileged position the Group stayed close to Diem and rarely ventured into the field.<br />By 1960 it was apparent that the main threat to South Vietnam was growing Viet Cong insurgency; the Group abandoned its stay behind role and was assigned missions in VC infested areas. Operations were briefly launched against VC in the Mekong Delta, and later along the Lao border.<br />In mid 1961 the Group had 340 men in 20 teams of 15, with plan for expansion to 805 men. In October the Group began operations into Laos to reconnoiter North Vietnamese Army logistical corridors into South Vietnam. In November the Group was renamed Lien Doan 77, or 77 Group, in honor of its USSF counterparts. Over the next two years members were regularly inserted into Laos and North Vietnam on harassment and psychological warfare operations. Longer duration agent missions, involving civilians dropped into North Vietnam, also came under the Group's auspices.<br />The Group's sister unit, 31 Group, began forming in February 1963. Following criticism of 77 Group's perceived role as Diem's 'palace guard', both groups were incorporated into a new command,, the Luc Luong Dac Biet (LLDB) or Special Forces, on 15 March 1963. In theory the LLDB would work closely with the USSF in raising irregular village defense units. This cosmetic change still kept the Special Forces outside of ARVN control, however, and did little to change the performance of Col. Tung's troops. In August, LLDB members attacked Buddhist pagodas across South Vietnam in an effort to stiffle Buddhist opposition to the Diem regime. At the time LLDB strength stood at seven companies, plus an additional three 'civilian' companies used by Diem on political operations. Because of such missions the LLDB became despised and, when anti Diem military units staged a coup d'etat in November, the 'revolutionary' forces arrested Col. Tung and quickly neutralized the LLDB. (Tung was later executed.)<br />The LLDB after President Ngo Dinh Diem<br />In the wake of the coup the Presidential Liaison Office was dissolved and its function assumed by the ARVN. The LLDB was put under the control of the Joint General Staff and given the mission of raising paramilitary border and village defense forces with the USSF. External operations were given to the newly formed Liaison Service, also under the JGS. The Liaison Service, commanded by a Colonel, was headquartered in Saigon adjacent to the JGS. It was divided into Task Force 1, 2 and 3, each initially composed of only a small cadre of commandos.<br />In 1964 the JGS also formed the Technical Service (So Ky Thuat), a covert unit tasked with longer duration agent operations into North Vietnam. Commanded by a Lieutenant Colonel, the Technical Service comprised Group 11 (Doan 11), oriented toward agent operations in Laos and eastern North Vietnam; Group 68 (Doan 68 Thang Long), another infiltration unit; and the Coastal Security Service, a maritime commando group at Da Nang attached to the Technical service with its own contingent of PT boats for seaborne infiltration.<br />The post Diem LLDB was restructured for its proper role as a source of counter insurgency instructors for paramilitary forces. By February 1964, 31 Group had finished training and was posted to Camp Lam Son south of Nha Trang. In May the Group became responsible for all LLDB detachments in I and 11 Corps. A second reorganization occured in September when 31 Group was renamed III Group and given responsibility for the Special Operations Training Center at Camp Lam Son. Now 77 Group, headquartered at Camp Hung Vuong in Saigon, became 301 Group. In addition, 91 Airborne Ranger Battalion, a three company fast reaction para unit, was raised under LLDB auspices in November. Total LLDB force strength stood at 333 officers, 1270 non commissioned officers and 1270 men. The LLDB command at Nha Trang was assumed by Brig. Gen. Doan Van Quang in August 1965.<br />By 1965 the LLDB had become almost a mirror image of the USSF. LLDB Headquarters at Nha Trang ran the nearby Special Forces Training Center at Camp Dong Ba Thin. LLDB 'C' Teams, designated A through D Company, were posted to each of South Vietnam's four Military Regions; each 'C' Team had three 'B' Teams, which controlled operational detachments at the sub regional level; 'B' Teams ran 10 to 11 'A' Teams. 'A' Teams were colocated with USSF 'A' Teams at camps concentrated along the South Vietnamese border, where they focused on training Civilian Irregular Defense Force (CIDG) personnel.<br />In addition, the LLDB Command directly controlled the Delta Operations Center with its Delta teams and the four company 91 Airborne Ranger Battalion, both were used by Project Delta, a special reconnaissance unit of the US Military Assistance Vietnam Studies and Observation Group (MACVSOG), which operated deep in VC/NVA sanctuaries.<br />On 30 January 1968 the Communists launched their TET general offensive across South Vietnam. Caught celebrating the lunar New Year, the Saigon government was initially ill prepared to counter the VC/NVA attacks. When Nha Trang was hit on the first day the LLDB Headquarters was protected by 91 Airborne Ranger Battalion, recently returned from one of its Project Delta assignments. At only 60 percent strength the Airborne Rangers turned in an excellent performance, pushing the major Communist elements out of Nha Trang in less than a day. The battle, however, cost the life of the battalion commander and wounded the four company commanders.<br />After a four month retraining in Nha Trang three companies from 91 Airborne Ranger Battalion were brought together with six Delta teams and renamed 81 Airborne Ranger Battalion. In early June the new battalion prepared for urban operations in Saigon after a second surge of Communist attacks pushed goverrunent forces out of the capital's northern suburbs. On 7 June the Airborne Rangers were shuttled into Saigon and began advancing toward VC held sectors around the Duc Tin Military School. After a week of bloody street fighting, much of it at night, the Airborne Rangers pushed the enemy out of the city.<br />Following the Tet Offensive 81 Airborne Ranger Battalion was increased to six companies, and continued to be used as the main reaction force for Project Delta; four companies were normally assigned Delta missions while two remained in reserve at LLDB Headquarters.<br /><br /><br /><br />The Strategic Technical Directorate<br />In late 1968 the Technical Service was expanded into the Nha Ky thuat (Strategic Technical Directorate, or STD) in a move designed to make it more like MACVSOG, the US joint services command created in 1964 which ran reconnaissance, raids and other special operations both inside and outside South Vietnam. Despite internal opposition the Liaison Service was subordinated to the STD as its major combat arm. Like SOG, the STD also had aircraft under its nominal control, including 219 Helicopter Squadron of the Vietnamese Air Force. By the late 1960s the size of the Liaison Service had increased tremendously. Task Forces 1, 2 and 3, commanded by lieutenant colonels and larger than a brigade, were directly analogous to MACVSOG's Command and Control North, Central and South. Each Task Force was broken into a Headquarters, a Security Company, a Reconnaissance Company of ten teams, and two Mobile Launch Sites with contingents of South Vietnamese Army and paramilitary forces under temporary Liaison Service control. Although the Liaison Service was a South Vietnamese unit, all of its operations were funded, planned and controlled by MACVSOG, and recon teams integrated both MACVSOG and Liaison Service personnel.<br />In December 1970, in accordance with the 'Vietnamization' policy, all CIDG border camps were turned over to the South Vietnamese government and CIDG units were incorporated into the ARVN as Biet Dong Quan, or Ranger, border battalions. No longer needed as a CIDG training force, the LLDB was dissolved in the same month. Officers above captain were sent to the Biet Dong Quan; the best of the remaining officers and men were selected for a new STD unit, the Special Mission Service. At the same time 81 Airborne Ranger Battalion was expanded into 81 Airborne Ranger Group consisting of one Headquarters Company, one Recon Company and seven Exploitation Companies. The Group was put under the direct control of the JGS as a general reserve force.<br />During 1970 the Liaison Service had staged numerous cross border missions into Cambodia in support of major external sweeps by the US and South Vietnamese forces against Communist sanctuaries. Early the following year the Service sent three recon teams into the 'Laotian Panhandle' two weeks before the ARVN's February Lam Son 719 incursion.<br />In February 1971 the STD underwent major reorganization in accordance with Vietnamization and its anticipated increase in special operations responsibilities. Headquartered in Saigon, STD command was given to Col. Doan Van Nu, an ARVN airborne officer and former military attache to Taiwan. As STD commander, and a non voting member of the South Vietnamese National Security Council, Nu took orders only from President Nguyen Van Thieu and the Chief of the Armed Forces of the Republic of Vietnam JGS.<br />The expanded STD consisted of a headquarters, a training center, three support services and six combat services. The training center was located at Camp Yen The in Long Thanh: Yen The, significantly, was the name of a resistance movement in northern Vietnam during the 11th century. Airborne instruction was conducted at the ARVN Airborne Division's Camp Ap Don at Tan Son Nhut. The three support services were Administration & Logistics; Operations & Intelligence; and Psychological Warfare, which ran the 'Vietnam Motherland', 'Voice of Liberty', and 'Patriotic Front of the Sacred Sword' clandestine radio stations. The combat services were the Liaison Service (Loi Ho), the Special Mission Service (Hac Long), Group 11, Group 68, The Air Support Service and the Coastal Security Service.<br />The Liaison Service (So lien Lac), commanded by a colonel in Saigon, was composed of experienced Loi Ho recon commandos divided among Task Force I (Da Nang), Task Force 2 (Kontum) and Task Force 3 (Ban Me thuot).<br />The Special Mission Service (So Cong Tac), also commanded by a colonel, was headquartered at Camp Son Tra in Da Nang. It remained in training under US auspices from February 1971 until January 1972. Unlike the shorter duration raid and recon missions performed by the Liaison Service, the SMS was tasked with longer missions into North Vietnam and Laos. It was initially composed of Groups 71, 72 and 75, with the first two headquartered at separate camps at Da Nang. Group 75 was headquartered at Plei Ku in the former LLDB B Co. barracks, with one detachment at Kom Tum to provide a strike force for operations in Cambodia and inside South Vietnam.<br />Group 11, an airborne infiltration unit based at Da Nang, and Group 68, headquartered in Saigon with detachments at Kom Tum, was soon integrated under SMS command. Group 68 ran airborne trained rallier and agent units, including 'Earth Angels' (NVA ralliers) and 'Pike Hill' teams (Cambodian disguised as Khmer Communists). A typical Earth Angel operation took place on 15 December 1971, when a team was inserted by US aircraft on a reconnaissance mission into Mondolkiri Province, Cambodia. Pike Hill operations were focused in the same region, including a seven man POW recovery team dropped into Ba Kev, Cambodia, on 12 February 1971. Pike Hill operations even extended into Laos, e.g. the four man Pike Hill team parachuted onto the edge of the Bolovens Plateau on 28 December 1971, where it reported on enemy logistics traffic for almost two months. Pike Hill operations peaked in November 1972 when two teams were inserted by C-130 Blackbird aircraft flying at 250 feet north of Kompong Trach, Cambodia. Information from one of these teams resulted in 48 B-52 strikes within one day.<br />The STD's Air Support Service consisted of 219 'King Bee' Helicopter Squadron, the 114 Observation Sqn., and C-47 transportation elements. The King Bees, originally outfitted with aging H34s, were re-equipped with UH-1 Hueys in 1972. The C-47 fleet was augmented by two C-123 transports and one C-130 Blackbird in the same year. All were based at Nha Trang.<br />The Easter Offensive 1972<br />During the 1972 Easter Offensive the combat arms of the STD saw heavy action while performing recon and forward air guide operations. Meanwhile, 81 Airborne Ranger Group was tasked with reinforcing besieged An Loc. The Group was heli lifted into the southern edge of the city in April, and the Airborne Rangers walked north to form the first line of defense against the North Vietnamese. After a month of brutal fighting and heavy losses, the siege was lifted. A monument was later built by the people of An Loc in appreciation of the Group's sacrifices.<br />In October 1972, the SMS was given responsibility for the tactical footage between Hue and the Lao border. In early 1973 US advisors were withdrawn. The Air Support Service soon proved unable to make up for missing US logistical support, sharply reducing the number of STD external missions. STD personnel, as well as Lien Doan Nguoi Nhai SEALS, were increasingly pulled into President Thieu's Office for special assignments. Later in the year the Liaison Service's Task Force 1, 2 and 3 were redesignated Groups 1, 2 and 3; and Camp Yen The was renamed Camp Quyet Thang ('Must Win'.)<br />Following a brief respite in the wake of the 1973 Paris Peace Accords, the STD was back in action against encroaching NVA elements in the countryside. In September 1973 two Liaison Service Loi Ho recon teams were inserted by helicopter into Plei Djereng, a key garrison blocking the NVA infiltration corridor down the Western highlands. They were unsuccessful in rallying the defenders after an NVA attack, however. In late 1974 the NVA increased their pressure; especially hard hit was the provincial capital of Phuoc Long in Military Region 3. After several weeks of NVA tank, artillery and infantry attacks the Phuoc Long defense started to crack. In an effort to save the city the government ordered 81 Airborne Ranger Group to reinforce the southern perimeter. After two days of weather delays one company was heli lifted east of the city on the morning of 5 January 1975; and by early afternoon over 250 Airborne Rangers were in Phuoc Long. After a day of relentless NVA assaults most of the original garrison fled; contact was lost with the Airborne Rangers as the NVA began to overwhelm the city. Early the next day Aiborne Rangers stragglers were spotted north of the city. A four day search eventually retrieved some 50 percent survivors.<br />By March 1975 the NVA had increased pressure on the Central Highlands, prompting Saigon to begin a strategic redeployment from the western half of II Corps. Although the Liaison Service's Groups 2 and 3 provided security for the withdrawing masses the redeployment soon turned into a rout. In the hasty withdrawal Group 2 had forgotten two recon teams in Cambodia; these later walked the entire distance back to the Vietnamese coast. After the fall of the Central Highlands government forces in I Corps began to panic, sparking an exodus to the south. In the confusion Group I of the Liaison Service attempted to provide security for the sealift to Saigon. Meanwhile, the SMS boarded boats on 30 March for Vung Tau.<br />With the entire northern half of the country lost, Saigon attempted to regroup its forces. 81 Airborne Ranger Group, which had arrived from II Corps in a state of disarray, was refitted at Vung Tau. The Liaison Service was posted in Saigon, with Groups I and 3 reinforcing Bien Hoa and Group 2 protecting the fuel depots. The SMS also reformed in Saigon.<br />On 6 April 1975 SMS recon teams sent northeast and northwest of Phan Rang discovered elements of two North Vietnamese divisions massing on the city. An additional 100 SMS commandos were flown in as reinforcements, but were captured at the airport as the North Vietnamese overran Phan Rang. A second tak force of 40 Loi Ho commandos was infiltrated into Tay Ninh to attack an NVA command post; the force was intercepted and only two men escaped. By mid April 81 Airborne Ranger Group was put under the operational control of 18th Division and sent to Xuan Loc, where the unit was smashed. The remnants were pulled back to defend Saigon. By the final days of April the NVA had surrounded the capital. Along with other high officials, the STD commander escaped by plane on 27 April. On the next day 500 SMS commandos and STD HQ personnel commandeered a barge and escaped into international waters. The remainder of the Liaison Service fought until capitulation on 30 April.<br />REPUBLIC OF VIETNAM<br />NAVAL SPECIAL FORCES<br />In 1960 the South Vietnamese Navy proposed the creation of an Underwater Demolitions Team to improve protection of ships, piers and bridges. Later in the year a navy contingent was sent to Taiwan for UDT training; the one officer and seven men who completed the course became the cadre for a Lien Doi Nguoi Nhai (LDNN), or Frogman Unit, formally established in July 1961. The LDNN, with a proposed strength of 48 officers and men, was given the mission of salvage, obstacle removal, pier protection and special amphibious operations.<br />Soon after the creation of the LDNN a second unit was formed: Biet Hai, or 'Special Sea Force', paramilitary commandos under the operational control of Diem's Presidential Liaison Office and given responsibility for amphibious operations against North Vietnam. US Navy SEAL (Sea, Air and Land) commando teams began deploying to South Vietnam in February 1962 and initiated in March a six month course for the first Biet Hai cadre in airborne, reconnaissance and guerrilla warfare training. By October, 62 men had graduated from the first cycle. A planned second contingent was denied funding.<br />In early 1964 the LDNN, numbering only one officer and 41 men, began special operations against VC seabome infiltration attempts. Six Communist junks were destroyed by the LDNN at Ilo Ilo Island in January during Operation 'Sea Dog'. During the following month the LDNN began to be used against North Vietnamese targets as part of Operation Plan 34A, a covert action program designed to pressure the Ha Noi regime.<br />In February a team unsuccessfully attempted to sabotage a North Vietnamese ferry on Cape Ron and Swatow patrol craft at Quang Khe. Missions to destroy the Route I bridges below the 18th Parallel were twice aborted. In March most of the LDNN was transferred to Da Nang and colocated with the remaining Biet Hai conunandos. During May North Vietnam operations resumed by LDNN teams working with newly trained Biet Hai boat crews. On 27 May they scored their first success with the capture of a North Vietnamese junk. On 30 June a team landed on the North Vietnamese coast near a reservoir pump house. Ile team was discovered and a hand to hand fight ensued; two LDNN commandos lost their lives and three 57mm recoiless rifles were abandoned, but 22 North Vietnamese were killed and the pump house was destroyed.<br />In July a second class of 60 LDNN candidates was selected and began training in Nha Trang during September. Training lasted 16 weeks, and included a 'Hell Week' in which students were required to paddle a boat 115 miles, run 75 miles, carry a boat for 21 miles and swim 10 miles. During the training cycle team members salvaged a sunken landing craft at Nha Trang and a downed aircraft in Binh Duong Province. Thirty-three men completed the course in January 1965 and were based at Vung Tau under the direct control of the Vietnamese Deputy Chief of Naval Operations (Operations).<br />In 1965 the LDNN was given responsibility for amphibious special operations in South Vietnam. Maritime operations against North Vietnam were given exclusively to the Da Nang based Biet Hai commandos and Hai Tuan boat crews, both incorporated into the new seaborne component of the STD, the So Phong Ve Duyen Hai (Coastal Security Service or CSS). The CSS, a joint services unit, was headed by an Army lieutenant colonel until 1966, then by a Navy commander. CSS missions focused almost entirely on short duration sabotage operations lasting one night, and had a high success rate. The CSS relied heavily on special operations teams temporarily seconded from other services. Teams on loan from the Vietnamese Navy considered most effective, were codenamed 'Vega'. Other teams came from the Vietnamese Marine Corps ('Romulus') and Army ('Nimbus'). The CSS also controlled 40 civilian agents ('Cumulus') until the mid 1960s. Unofficialy, the term Biet Hai was used for all CSS forces, regardless of original service affiliation. CSS training was conducted at Da Nang under the auspices of US Navy SEAL, US Marine, and Vietnamese advisors. Further support was provided by the CSS's Da Nang based US counterpart, the Naval Advisory Detachment, a component of MACVSOG.<br />By the mid 1960s US Navy SEAL teams were being rotated regularly through South Vietnam on combat tours. Specialists in raids, amphibious reconnaissance and neutralization operations against the VC infrastructure, the SEALs worked closely with the LDNN and began qualifying Vietnamese personnel in basic SEAL tactics. In November 1966 a small cadre of LDNN were brought to Subic Bay in the Philippines for more intensive SEAL training.<br />In 1967 a third LDNN class numbering over 400 were selected for SEAL training at Vung Tau. Only 27 students finished the one year course and were kept as a separate Hai Kich ('Special Sea Unit,' the Vietnamese term for SEAL) unit within the LDNN. Shortly after their graduation the Communists launched the Tet Offensive most of the LDNN SEALs were moved to Cam Ranh Bay, where a fourth LDNN class began training during 1968. During the year the Vietnamese SEALs operated closely with the US Navy SEALS. The LDNN SEAL Team maintained its focus on operations within South Vietnam, although some missions did extend into Cambodia. Some missions used parachute infiltration.<br />LDNN after Tet<br />In 1971, in accordance with increased operational responsibilities under the Vietnamization program, the LDNN was expanded to the Lien Doan Nguoi Nhai (LDNN), or Frogman Group, comprising a SEAL Team, Underwater Demolitions Team, Explosive Ordnance Disposal Team and Boat Support Team. Headquarters remained in Saigon. For the remainder of 1971 the SEALs operated in 12 18-man detachments on neutralization operations and raids inside South Vietnam. SEAL launch sites included Ho Anh, north of Da Nang, Hue and Tinh An.<br />During the 1972 Easter Offensive the SEALs were transferred to Hue to conduct operations against NVA forces holding Quang Tri; after Quang Tri was retaken some of the SEALs went to Quang Ngai to resume VC neutralization operations. After US Navy SEAL advisors were withdrawn in late 1972 the LDNN SEAL Team, now 200 strong, took over training facilities at Cam Ranh Bay; training, however, was cut in half, with only one fifth given airborne training. The SEALs had been augmented by ten graduates out of 21 LDNN officer candidates sent to the US for SEAL training in 1971.<br />When the Vietnam ceasefire went into effect in 1973 the SEALs returned to LDNN Headquarters in Saigon. At the same time the CSS was dissolved, with the Navy contingent given the option of transferring to the LDNN.<br />In late December 1973 the government reiterated its territorial claim to the Paracel Island chain off its coast and dispatched a small garrison of militia to occupy the islands. By early January 1974 the Chinese, who also claimed the islands, had sent a naval task force to retake.the Paracels. On 17 January 30 LDNN SEALs were infiltrated on to the western shores of one of the major islands to confront a Chinese landing party. The Chinese had already departed; but two days later, after SEALs landed on a nearby island, Chinese forces attacked with gunboats and naval infantry. Two SEALs died and the rest were taken prisoner and later repatriated.<br />During the final days of South Vietnam a 50 man SEAL detachment was sent to Long An; the remainder were kept at LDNN Headquarters in Saigon along with 200 new SEAL trainees. During the early evening of 29 April all SEAL dependents boarded LDNN UDT boats and left Saigon; a few hours later the SEALs departed the capital, linked up with the UDT boats, and were picked up by the US 7th Fleet in international waters.<br />By Ken Conboy</strong>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-5287616959020295216.post-5821687975505304532008-03-28T14:18:00.001-07:002008-12-11T03:12:38.909-08:00Nhung Dieu Tam Niem<a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjNvhQOtxpTFfrKVuVGzkE9gjCAj7vWWnfOuzjQ3qYgIcG9a6-Jv26nUqIwIwsUUYMIFPaNtYm5imrEAqCwL5YoPuNIxPR_UctGsSvgeah3W-yvGfOtX42dYkcv62UApIZzvrsMZoS49v8/s1600-h/BANGDUVNsize23.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjNvhQOtxpTFfrKVuVGzkE9gjCAj7vWWnfOuzjQ3qYgIcG9a6-Jv26nUqIwIwsUUYMIFPaNtYm5imrEAqCwL5YoPuNIxPR_UctGsSvgeah3W-yvGfOtX42dYkcv62UApIZzvrsMZoS49v8/s400/BANGDUVNsize23.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5213267804025326562" /></a><br /><br /><a href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiXQcVXFWdWwXrRu2gOwOev1oUZFe37CHJMRj6X6i9pHuHG9lEm42bg4nSJ3-CGgElhz8GT-bRgR3wXSjSKyna38HMT8rlxvmZnSkAIEReZ0WI6lM-zFpIKUeBHi_zcg1VTbDYiIsPI2FQ/s1600-h/nhungdieutamniemsize12.jpg"><img style="display:block; margin:0px auto 10px; text-align:center;cursor:pointer; cursor:hand;" src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiXQcVXFWdWwXrRu2gOwOev1oUZFe37CHJMRj6X6i9pHuHG9lEm42bg4nSJ3-CGgElhz8GT-bRgR3wXSjSKyna38HMT8rlxvmZnSkAIEReZ0WI6lM-zFpIKUeBHi_zcg1VTbDYiIsPI2FQ/s400/nhungdieutamniemsize12.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5182905178031703970" /></a>Nha Kỹ Thuậthttp://www.blogger.com/profile/00058869536112748808noreply@blogger.com0